HƯ VÂN NIÊN PHỔ - THƠM NGÁT HƯƠNG LAN - KIẾN CHÂU – NHƯ THỦY – HẠNH ĐOAN dịch - NXB Phương Đông

🪷🪷🪷🪷🪷🪷🪷🪷🪷

HƯ VÂN HÒA THƯỢNG HỌA TRUYỆN

HƯ VÂN HÒA THƯỢNG HỌA TRUYỆN

MỤC LỤC

  • Chương 1: Chào Đời
  • Chương 2: Cầu Đạo
  • Chương 3: Bái Hương
  • Chương 4: Du Ngoạn
  • Chương 5: Ngộ Đạo
  • Chương 6: Hành Đạo
  • Chương 7: Nhập Diệt

AUDIO I - HƯ VÂN NIÊN PHỔ

AUDIO II - HƯ VÂN NIÊN PHỔ


CHƯƠNG 1: CHÀO ĐỜI (HƯ VÂN NIÊN PHỔ)

Tôi họ Tiêu gốc người Lan Lăng, cha tên Ngọc Đường, mẹ họ Nhan, thuộc dòng dõi vua Lương Võ Đế.

ĐỜI THANH ĐẠO QUANG 1 - 1821

Cha tôi thi đậu được bổ làm quan Tri phủ tỉnh Mân (Phước Kiến).

Cha mẹ tôi hơn 40 tuổi mà vẫn hiếm muộn nên mẹ tôi lên chùa Quan Âm cầu con, thấy mặt tiền chùa và cây cầu phía Đông bị hư, bà phát tâm tu bổ lại.

Ngày nọ, mẹ tôi nằm mơ thấy một người áo xanh tóc dài, đội mũ Quan Âm cưỡi hổ đến và nhảy lên giường nằm, mẹ tôi giật mình thức giấc, cảm giác có hương thơm lạ, phả đầy nhà,1 bà kể chuyện mộng cho cha tôi nghe, không ngờ cha tôi cùng mơ thấy y như vậy. Sau đó, mẹ tôi biết mình có mang, còn cha tôi được chuyển tới phủ Thường Châu. Niên hiệu Đạo Quang 20, năm Canh Tý ngày 29 tháng 7 (Giáp Thân) giờ Dần (26/8/1840 D.L), tôi chào đời tại phủ Tuyền Châu.

Lúc thân mẫu sinh ra tôi, thấy chỉ là cái bọc thịt nên rất sợ và tuyệt vọng, bà xúc động quá tắt hơi rồi lìa trần.

Ngày hôm sau có ông thầy lang đi tới xé chiếc bọc ra mới thấy bên trong có một bé trai. Thứ mẫu lãnh việc nuôi dưỡng tôi.

NĂM 1840 1 TUỔI ĐẾN 1843 - 4 TUỔI

Tôi ở Tuyền Châu, ngay từ nhỏ, tôi không ưa ăn mặn, hễ người nhà cho ăn thịt cá là tôi nôn ra hết.2 Hễ thấy tượng Phật, pháp vật Tam bảo thì rất mừng, ai cũng lấy làm lạ. Từ 5 tuổi đến 10 tuổi tôi đổi sang cư trú ở Chương Châu, Phước Ninh.

NĂM 1850 - 11 TUỔI

Cha tôi về lại Tuyền Châu. Bà nội tôi họ Chu, đã già yếu, tôi là con trai một nên gia đình quyết định làm lễ đính hôn cho tôi với hai tiểu thư họ Điền và Đàm. Cuối năm thì nội tôi mất. Cha tôi về quê thọ tang. Cũng trong năm này Hồng Tú Toàn khởi nghĩa ở Kim Điền.

NĂM HÀM PHONG 1 - TÂN HỢI (1851) - 12 TUỔI

Tháng hai, cha tôi có việc đi Đài Loan, ông dẫn tôi theo. Chiếc thuyền nhỏ khởi hành từ Hạ Môn, đang lênh đênh trên biển thì bỗng thấy hiện sừng sững một con quái khổng lồ, lưng to như quả núi nhô cao hơn mặt biển tới mấy mươi thước. Mọi người trên thuyền đều hoảng kinh, đồng chắp tay niệm Quán Âm. Thuyền đi độ nửa giờ mới tới được cái đuôi con vật, thấy là hình cá. Con cá này thiệt dài không biết bao nhiêu dặm vậy. Năm này Hồng Tú Toàn đánh Vĩnh An, xưng là Thái Bình Thiên Quốc Thiên Vương.

NĂM NHÂM TÝ (1852) - 13 TUỔI

theo cha đưa linh cửu bà nội và mẹ về quê (đất Tương) an táng. Gia đình mời chư Tăng đến làm đám, tôi được thấy các pháp vật Tam bảo trong lòng rất vui. Sẵn nhà có kinh Phật tôi đọc truyện Hương Sơn kể việc thành đạo của Bồ-tát Quán Thế Âm, tâm tư cứ vương vấn mãi.

Tháng 8 tôi theo chú đến Bồ Đường, đi dâng hương ở Nam Nhạc, dạo các cảnh chùa. Lòng bồi hồi xúc động, cảm giác như có duyên xưa, ý chẳng muốn quay về nhưng sợ chú không dám nói ra.

NĂM HÀM PHONG 3 - QUÝ SỬU (1853) - 14 TUỔI

Cha tôi biết con mình có chí xuất trần, muốn giữ tôi ở lại nhà nối nghiệp, bèn thỉnh ông thầy họ Vương đến dạy tôi pháp (tu Tiên) luyện Khí Công. Tôi trong lòng không ưa, nhưng chẳng dám tỏ bày.

Mùa đông năm này cha tôi về quê xả tang nội, giao tôi cho chú chăm sóc. Sau đó, ông đổi sang Phúc Kiến nhậm chức ở Hạ Môn, làm quan ở đây được hai năm thì ông về Tuyền Chầu lại.

Năm này Hồng Tú Toàn định đô ở Nam Kinh. Tăng Quốc Phiên mộ quân ở đất Tương.

NĂM HÀM PHONG 6 - BÍNH THÌN (1856) – 17 TUỔI

Tôi ở nhà đọc sách Tiên được ba năm, thầm biết đây không phải pháp giải thoát rốt ráo nên lòng khó chịu như ngồi trên gai, song bề ngoài vẫn tỏ ra ngoan ngoãn, ráng chăm coi việc nhà để chú vui lòng, hòng thoát sự giám sát nghiêm nhặt của ông.

Ngày nọ, chú đi vắng, tôi nghĩ là duyên thoát tục đã tới, bèn ôm gói trốn lên Nam Nhạc, ai dè mới đi được nửa đường thì bị bắt lại. Chú đem tôi và Phú Quốc về Tuyền Châu.

Không lâu, cha tôi cho rước hai tiểu thư họ Đàm và họ Điền về cùng tôi cử hành hôn lễ rồi nhốt chúng tôi ở chung phòng (nhưng tôi không có nhiễm), tôi còn thuyết pháp cho hai nàng nghe. Thấy Phú Quốc có chí xuất tục, nên tôi cũng giảng cho nó nghe luôn. Kết quả, từ phòng khuê ra đến bên ngoài, chúng tôi đều thành Pháp lữ.

Năm này, liên quân Anh Pháp tấn công, vây hãm Quảng Đông.


CHƯƠNG 2: CẦU ĐẠO (HƯ VÂN NIÊN PHỔ)

NĂM 1858 – 19 TUỔI

Tôi quyết chí lìa tục, Phú Quốc cũng đồng chí hướng. Chúng tôi bí mật thăm dò lộ trình cổ Sơn, Phúc Châu, tôi làm bài thơ Bì Đại Ca (bài ca Túi da) từ biệt hai cô Đàm, Điền.

Tôi và Phú Quốc trôốn đến chùa Dũng Tuyền núi Cổ Sơn, đảnh lễ ngài Thường Khai xin xuống tóc.

Năm này liên quân Anh Pháp vây Đại Cô, ký kết điều ước Thiên Tân.

NĂM KỶ MÙI (1859) – 20 TUỔI

Tôi theo Hòa thượng Diệu Liên, Cổ Sơn thọ giới cụ túc có tên là cổ Nham, hiệu Điển Triệt, tự Đức Thanh.

Bấy giờ cha tôi ở Tuyền Châu sai người đi khắp nơi tìm con. Phú Quốc thọ giới xong thì đi du phương và biệt tích luôn.

Phần tôi thì trốn ở động đá phía sau lo lạy sám hối Vạn Phật, không dám ló mặt ra ngoài. Thỉnh thoảng gặp cọp, sói cũng không biết sợ.

NĂM 1860 - 21 TUỔI

Liên quân Anh Pháp tấn công Bắc Kinh. Vua đến Nhiệt Hà, ký điều ước Bắc Kinh cho 9 nước thông thương.

NĂM ĐỒNG TRỊ 1 - NHÂM TUẤT (1863) – 23 TUỔI

Tôi trốn trong sơn động lễ bái vừa tròn ba năm. Ngày nọ có vị chức sự ở cổ Sơn đến báo tin:

– Ông Tiêu, thân phụ thầy đã cáo lão từ quan về cố hương (Tuyền Châu) rồi, thầy không cần phải trốn nữa, Hòa thượng Diệu Liên khen thầy có chí kiên quyết khổ tu, nhưng mà tu huệ không chưa đủ, cần phải tu phước nữa… Ngài bảo thầy hãy về chùa nhậm chức, làm việc phụng sự đại chúng.

Tôi trở về sơn môn nhận việc.

NĂM ĐỒNG TRỊ 2 - GIÁP TÝ (1864) – 25 TUỔI

Tôi đang làm chức sự tại chùa cổ Sơn, đến mùa đông tháng chạp thì nghe tin cha tôi bệnh, mất tại đất Tương, từ đây tôi dứt bặt gia duyên, cắt đứt thư từ.

Năm này Hồng Tú Toàn uống thuốc độc chết, Thái Bình Thiên Quốc tan rã.

NĂM 1866 – 27 TUỔI

Có người đến báo tin: “Sau khi thân phụ Thầy qua đời, Vương Thứ mẫu dẫn 2 cô dâu đi xuất gia hết. Thứ mẫu pháp danh Diệu Tịnh, cô Điền là Chơn Khiết, cô Đàm là Thanh Tiết”…

Tôi làm chức sự ở Cổ Sơn được bốn năm, tập tu khổ hạnh, tình nguyện làm các việc nặng nhọc… Trong chúng có chia phần cúng dường gì tôi đều không nhận, hằng ngày chỉ dùng một bát cháo mà khí lực vẫn sung mãn, mạnh mẽ.

Trong sơn môn lúc ấy có Thiền sư cổ Nguyệt là khổ hạnh đệ nhất, tôi thường trò chuyện với ông rồi nghĩ thầm: “Mình làm chức sự đã nhiều năm, nhưng việc tu vẫn chưa vừa ý. Ngày xưa thầy Huyền Trang vì muốn đi Ấn Độ thỉnh kinh nôn suốt mười năm đã học tập ngoại ngữ, hằng ngày luyện đi trăm dặm, còn tập tuyệt thực – Ban đầu nhịn một ngày sau tăng lên nhiều ngày để phòng khi đi qua sa. mạc mênh mông không nước uống… người xưa chiu khó vậy đó, lẽ nào mình không noi theo?”..

Sống cảnh màn trời chiếu đất

Thế là tôi từ chức Tri sự, cho hết đồ, chỉ giừ lại một manh áo chắp, một đôi dép, một quần, một áo, một bồ đoàn, rồi đi vào núi tìm hang đá mà ở.

NĂM 1867, 1868, 1869 – 27, 28, 29 TUỔI

Suốt 3 năm này, tới ở trong hang núi, chỉ ăn trái thông, rau cỏ… khát thì uống nước suối. Lâu ngày, quần áo giầy dép đều mục nát, chỉ còn manh áo chắp che thân, tóc ra dài phải bó thành búi, râu thòng cả thước, đôi mắt sáng rực. Người ta vừa nhìn thấy tôi từ xa thì cho là quỉ, hoảng hốt bỏ chạy, tôi cũng chẳng nói chuyện với họ.

Một, hai năm đầu khi ngồi thiền, dù có thấy cảnh tượng thù thắng hiện ra, tôi cũng không cho là lạ lùng đặc biệt gì, chẳng thèm để ý đến, cứ chuyên tâm thiền quán, niệm Phật. Trong chôn núi sâu thăm thẳm, cọp sói không làm hại, rắn độc không xâm phạm, tôi chẳng tiếp láng giềng, không ăn đồ nấu nướng nhân gian, sống cảnh màn trời chiếu đất, thấy muôn vật đều đầy đủ nơi mình, trong lòng tự vui như cõi Tứ thiền. Những mối lo của thế nhân thảy đều xuất phát từ tai và miệng. Người xưa nói: “Dĩ nhất bát khinh vạn chung” (Được một bát xem nhẹ muôn chung); tôi bây giờ ngay cả một bát cũng không có, vẫn sống vô ngại tự tại, thư thái an nhiên, thể lực ngày một cường tráng, tai mắt sáng tỏ, cất bước nhe nhàng nhanh lẹ như bay. Cũng khống biết vì sao mà được như vậy. Tâm tự do tự tại, có núi để ở, có cỏ để ăn, đi đi lại lại, quên hết tháng ngày.

NĂM CANH NGỌ (1870) - 31 TUỔI

Một hôm, tôi đi đến một ngon núi ở Ôn Châu, đang ngồi nghỉ tạm thì có một Thiền nhân đến lễ bái, thưa:

-Từ lâu được nghe cao hạnh của Ngài, xin hãy khai thị cho.

Nghe ông ta nói, tôi hổ thẹn đáp:

-Tôi kiến thức còn ngu muội, tham học ít, xin Thượng tọa từ bi chỉ cho.

Ông ta hỏi:

– Thầy tu thế này bao lâu rồi?

Tôi bèn thuật lại những gì đã trải qua. Ông nói:

– Tôi cũng tham học ít nên chẳng thể bày cho Thầy. Thầy hãy đến am Long Tuyền ớ Hoa Đỉnh, núi Thiên Thai, thỉnh giáo Lão Pháp sư Dung Kính, Ngài là bậc đạo cao đức trọng bậc nhất nơi đây, chắc sẽ giúp ích nhiều cho Thầy

Tu kiểu này chẳng khác chỉ ngoại đạo

Tôi đi thẳng lên Hoa Đỉnh, gặp một vị Tăng ngoài thảo am, liền hỏi:

-Lão Pháp sư có ở đây không ạ?

Vị Tăng đáp:

-Ngài đang ngồi vá áo kia kìa!

Tôi tiến đến trước Ngài thi lễ Pháp sư không thèm dòm. Tôi thưa;

-Con đến xin thọ giáo, cúi mong Ngài rủ lòng từ bi.

Ngài nhìn tôi hồi lâu rồi hỏi:

-Ông là Tăng? Đạo sĩ hay người đời? ..

-Con là Tăng.

-Thọ giới chưa?

-Thưa, đã thọ giới đầy đủ!

-Tu mửng này được bao lâu rồi?

Tôi thuật lại mọi chuyện, Pháp sư hỏi:

-Ai bày ông làm như vậy?

-Thưa, do con thấy cổ nhân tu đạo hay hành khổ hạnh nên con bắt chước…

-Ông chỉ biết cái đạo gìn thân của cổ nhân, vậy chứ có hiểu cái thuật giữ tâm của cổ nhân chăng? Ta thấy ông tu kiểu này chẳng khác chi ngoại đạo, vừa không đúng pháp, lại uổng mất mười năm công phu! Ví dù ông có ở trong núi, uống nước suối, ăn cỏ mà sống tới vạn năm, chẳng qua cũng thuộc vào một trong mười loại Tiên mà Kinh Lăng Nghiêm tả, còn cách đạo rất xa. Mà dẫu ông có tiến thêm một bước, chứng được Sơ quả đi nữa… thì bất quá cũng chỉ là anh chàng tự liễu trong các quả Thanh văn, La-hán. Nếu thật là Bồ-tát phát tâm, thì phải “Trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sanh, tự độ, độ người, nghĩa là tuy xuất thế gian mà chẳng lìa pháp thế gian”!

-Nay ông ép mình nhịn ăn, đến quần cũng không mặc, chẳng tránh được kiểu phô trương kỳ ôn dị hợm, ông chẳng thấy lạ là công phu mình không thăng tiến hay sao?

Tôi bị Hòa thượng giáng cho một đòn đau thấu xương, chỉ biết lễ vùi, cầu khai thị.

Ngài bảo:

-Giờ ta dạy, nếu chịu nghe thì ở lại, bằng không, muốn đi đâu tùy ý…

-Con đã đến xin học, nào dám không nghe.

Ngài liền tặng cho quần áo, giày dép, bảo tôi cạo tóc, tắm rửa, đi làm công tác và dạy tham câu thoại đầu: “Người kéo thây chết này là ai?”

Tôi bắt đầu ăn cháo, ăn cơm và học pháp quán Thiên Thai, siêng năng chấp tác, Lão Pháp sư có vẻ rất hài lòng.

NĂM ĐỔNG TRỊ THỨ 10 – TÂN MÙI (1871) - 32 TUỔI

Tôi ở Am Long Tuyền hầu Sư có chút khai sáng. Sư Dung Kính tuổi đã hơn 80, giới luật tinh nghiêm; Thiền, Giáo đều thông. Sau đó Ngài khuyên tôi nên đi du phương tham học.

33 tuổi, tôi vâng lời Pháp sư, đi đến chùa Quốc Thanh học Thiền, đến chùa Phương Quảng học Pháp Hoa.

Từ 34 – 35 tuổi, suốt 2 năm này, tôi học Kinh giáo ở chùa Quốc Thanh, thỉnh thoảng về thảo am thân cận với Pháp sư Dung Kính.

NĂM QUANG TỰ THỨ I – ẤT HỢI (1875) - 36 TUỔI

Tôi đến chùa Cao Minh nghe Pháp sư Mẫn Huy giảng Pháp Hoa rồi về giã biệt Pháp sư Dung Kính, do còn lưu luyến quá nên tôi đàm đạo với Ngài thêm vài hôm nữa rồi cung kính tạ từ.

Tôi xuống núi, qua Tuyết Đậu, đến chùa Nhạc Lâm nghe giảng Kinh Di Đà rồi qua sông lên núi Phổ Đà, ở lại đây cho đến hết năm. Lúc ở Phổ Đà, tôi đi tham học hết các chùa quanh đấy.

Tháng 10 năm này, sóng biển đẩy vào một con cá mắc cạn. dài mấy mươi trượng, mắt to như cái chậu. Dân chài làm thịt, mổ bụng cá thấy trong có hai chiếc thuyền, có tóc, vòng vàng cùng nhiều vật khác. Họ lấy xương sống cá làm cột nhà, các xương lớn làm xiên, trinh. Rồi khi nước triều dâng, tôi thấy ở động Triều Dương có một con rồng bơi tới, vảy nó óng ánh như vàng, toàn thân và bốn chân đều hiện đủ, chỉ cái đầu là không thấy, đuôi nó giống như đuôi cá, giây lâu mới bỏ đi.

NĂM 1876 - 37 TUỔI

Từ Phổ Đà tôi trở về Ninh Ba ở chùa A Dục, tôi đóng tiền ăn mỗi tháng ba đồng, nguyện lạy hai tạng xá-lợi để báo ân cha mẹ, rồi đến chùa Thiên Đồng nghe giảng Lăng Nghiêm.

Thiếu tỉnh giác, thế nào cũng thất bại

NĂM 1877 - 38 TUỔI

Lúc tôi đi từ Ninh Ba đến Hàng Châu, lễ viếng các thắng cảnh. Gặp tiết Tam Phục (khí trời nóng nực), thuyền nhỏ mà người đông, thanh niên nam nữ nằm chen chúc bừa bãi. Nửa khuya đang ngủ ngon, bỗng nghe có người chạm vào thân thể, tôi giật mình tĩnh giấc. Thấy cô gái kế bên cởi áo ngoài ra, tôi chẳng dám lên tiếng, vội bật dậy ngồi kiết-già, trì chú. Cô gái không dám nhúc nhích. Lúc ấy, nếu tôi thiếu tĩnh giác, thế nào cũng thất bại. Các bậc tu hành không thể không cẩn thận về việc này.

Tôi đến Bàn Sơn lễ Hòa thượng Thiên Lãng…

Ở lại Tây Thiên Mục đến hết mùa đông.

NĂM 1878 - 39 TUỔI

Tôi đến chùa Thiên Minh lễ Hòa thượng Thanh Quang, trú tại đây hết mùa đông.

NĂM 1879 - 40 TUỔI

Tôi đến Tiều Sơn, lễ Hòa thượng Đại Thủy. Tại đây thường đàm luận Phật pháp với viên Sĩ quan Hải quân Bành Ngọc Lâm. Ông đốì với tôi rất ư là tin kính.

NĂM 1880 - 41 TUỔI

Tôi đến chùa Kim Sơn, thân cận Hòa thượng Quán Tâm, qua chùa Tân Lâm hầu Hòa thượng Đại Định và tọa thiền hết mùa đông.

NĂM 1881 - 42 TUỔI

Tôi đến chùa Cao Mân ở Dương Châu lễ Hòa thượng Lãng Huy. Ở lại đây hết mùa đông, công phu hành thiền ngày một tăng tiến.


CHƯƠNG 3: BÁI HƯƠNG (HƯ VÂN NIÊN PHỔ)

Năm 43 tuổi, tôi ở chùa Phổ Đà mấy tháng, khi tĩnh tọa cũng thấy chút thắng cảnh. Tôi nghĩ thầm: “Mình cắt ái từ thân, cạo tóc xuất gia đã hơn 20 năm rồi mà đạo nghiệp vẫn chưa thành, cứ lông bông phiêu dạt, thật là hổ thẹn”… Nghĩ muốn báo đền ân đức cù lao nên tôi quyết định sẽ bái hương từ Đông Nam Hải đến Bấc Ngũ Đài.

Ngày mồng 1 tháng 7 năm Nhâm Ngọ (1882) tôi phát thệ triều lễ Ngũ Đài Sơn. Bắt đầu lễ từ Am Pháp Hoa núi Phổ Đà. Hễ đi ba bước thì lạy một lạy, cứ thế đi mãi, bao giờ đến Ngũ Đài Sơn thì xem như thệ nguyện viên mãn.

Mới đầu có bốn Thiền giả là Biến Chơn, Thu Ngưng, Sơn Hà, Giác Thừa cùng đi theo phụ hương. Nhưng sau khi vượt biển thì mỗi ngày đi đường chẳng được bao nhiêu, phải dừng lại ở Hồ Châu.

Khi đến Tô Châu, Thường Châu, thì các vị đồng hành này dần dần rút lui hết, rốtt cuộc chỉ còn mình tôi miệt mài triều lễ.

Đến Nam Kinh, tôi lễ tháp Sư tổ Pháp Dung (dòng Thiền Ngưu Đầu), rồi qua sông đến chùa Sư Tử ở Phố Khẩu thì hết năm.

QUANG TỰ THỨ 9 – QUÍ MÙI (1883)

Tôi 44 tuổi. Khởi hành nơi núi Sư Tử, từ Bắc Giang Tô đi đến tỉnh Hà Nam, qua Phụng Dương, Hòa Châu, Thiệu Lăng, Tung Sơn (chùa Thiếu Lâm) tới chùa Bạch Mã, Lạc Dương. Sáng đi tối nghỉ, dù trời quang hay mưa gió tôi vẫn cứ đi, tam bộ nhất bái, chuyên tâm hành lễ dốc lòng niệm Thánh hiệu Bồ Tát, không màng no đói, khổ vui.

Tháng chạp, tôi đến bến Thiết Hàm sông Hoàng Hà, qua Lăng Quang Vũ. Ngày mồng một nghỉ đêm tại lữ điếm, mồng hai qua sông, đến bờ thì trời đã tối nên chẳng dám đi. Lúc này bốn bề vắng lặng không một bóng người.

Thấy ven đường có một chòi tranh trống, tôi vào đó ngồi kiết-già. Ban đêm khí trời càng lạnh, rét buốt xương, tuyết rơi mù mịt. Sáng ra vừa mở mắt nhìn, thấy thế giới như hóa lưu ly, tuyết phủ dày cả thước, chẳng còn lối đi, không một bóng người lai vãng, cũng chẳng biết phương hướng đâu mà bước. Mới đầu, tôi còn ngồi niệm Phật, ráng chịu đói lạnh, chòi tranh lại không có vách, rét đến nỗi tôi phải nằm co. Đã vậy tuyết mỗi lúc càng đổ mạnh, phả hơi lạnh khủng khiếp, bụng tôi đói như cào, hơi thở mỗi lúc một yếu dần chỉ còn thoi thóp, nhưng chánh niệm không mất.

Một ngày, hai ngày rồi ba ngày… tuyết cứ rơi, tôi vì nhịn đói suốt mấy ngày thêm bị cơn rét cóng nên chìm dần vào hôn mê.

Đến xế trưa ngày mồng sáu, tuyết ngừng rơi, đã thấy ánh mặt trời hiện ra le lói, nhưng tôi đã bệnh nặng, không sao ngóc dậy nổi.

Thầy từ đâu đến?

Sáng mồng bảy, có ông ăn mày đi tới, thấy tôi nằm vùi trong tuyết bèn tiến lại gần hỏi thăm, nhưng tôi không mở miệng được. Biết tôi bị nhiễm lạnh, ông ta bèn gạt tuyết, rút cỏ trên mái tranh để nhen lửa sưởi ấm cho tôi. Sau đó ông lấy tuyết nấu cháo cho tôi ăn. Được hơ ấm, tôi tỉnh dần. Ông ăn mày hỏi:

-Thầy từ đâu đến?

-Nam Hải.

-Định đi đâu?

-Triều lễ Ngũ Đài.

Tôi hỏi tên, họ thì ông ta đáp:

-Tôi họ Văn tên Cát.

-Ông ở đâu tới, định đi đâu?

-Từ Ngũ Đài đến, tính đi Trường An.

-Ngũ Đài hả? Vậy có thường viếng chùa không?

-Ở đó ai cũng biết tôi hết.

-Từ đây đến Ngũ Đài, phải đi qua những nơi nào?

-Qua Mạnh huyện, Hoài Khánh, Hoàng Sa Lĩnh, Tân Châu, Thái Cốc, Thái Nguyên, Đại Châu, Nga Khẩu… thì tới núi. Nhưng thầy hãy ghé ngọn Bí Ma trước, ở đây có vị Tăng miền Nam tên Thanh Nhất tu hành rất tốt.

Tôi hỏi:

-Từ đây đến núi ấy còn bao xa?

-Hơn hai nghìn dặm (Tương đương 1000km)

Ở Nam Hải có thứ này không?

Lúc Văn Cát nhóm lửa nấu cháo gạo rang, ông lấy tuyết nấu thay nước và trỏ vào nồi, hỏi tôi:

-Ở Nam Hải có thứ này không?

-Không!

-Vậy dùng gì?

-Dùng nước!

Khi tuyết trong nồi tan hêt, ông chỉ vào đấy hỏi:

-Là gì đây?

Tôi không đáp được. Ông ta chất vấn tiếp:

-Thầy lễ bái danh sơn ý muồn cầu cái gì?

-Tôi sinh ra chẳng được thấy mẫu thân nên phát tâm triều lễ mong báo đáp thâm ân…

-Thầy mang hành lý nặng, đường lại thăm thẳm xa, thêm nỗi tiết trời giá buốt, đi kiểu này, biết ngày nào mới tới? Hãy thôi đi! Tôi khuyên Thầy chẳng nên lễ nữa…

-Thệ nguyện này tôi hằng ôm ấp, đã muốn thực hiện từ lâu thì kể chi năm tháng xa gần?

-Nguyện của Thầy thiệt khó!… Bây giờ tiết trời tuy tốt nhưng tuyết vẫn chưa tan, chẳng dễ tìm ra lối đi. Thầy hãy theo dấu chân của tôi đã đến đây mà bước nhé. Cách đây mười cây số có ngọn Tiểu Kim Sơn, đi thêm mười cây nữa thì đến Mạnh huyện là gặp chùa, có thế trú ngụ được…

Nói xong, Văn Cát cáo biệt.

Do tuyết phủ dày khó hành lễ nên tôi vừa đi vừa vái theo dấu chân.

Xin thỉnh Thượng tọa vào chùa!

Đến Tiểu Kim Sơn, tôi vào chùa quải đơn (trình điệp đàn xin nghỉ qua đêm). Hôm sau tôi lẻ tiếp đến Mạnh huyện. Từ Mạnh huyện đến Hoài Khánh (Tầm Dương), gần chùa Hồng Phước, thì gặp vị Tăng già tên Đức Lâm, chứng kiến cảnh tôi bái lạy trên đường, ông tiến đến đỡ lấy đồ đạc, ngỏ lời mời:

-Xin thỉnh Thượng tọa vào chùa!

Rồi gọi đồ chúng đem hành lý tôi vào cất, ân cần chiêu đãi. Cơm nước xong, ông hỏi:

-Thượng tọa bắt đầu triều lễ từ đâu vậy?

Tôi kể sơ cho ông nghe, vì muốn báo thâm ân nên đã bắt đầu lễ từ Phổ Đà, đi mất hai năm mới tới đây. Nghe kể tôi xuất gia ở Cổ Sơn, ông bất giác rơi lệ nói:

-Nhóm chúng tôi có ba người, một ở Hành Dương, một ở Phúc Châu, đồng kết bạn triều sơn, ở chung ngót ba mươi năm, sau đó chia tay rồi bặt tin luôn. Giờ nghe Thượng tọa nói tiếng đất Tương, lại là đồ đệ Cổ Sơn, tôi có cảm giác như gặp lại bạn cũ của mình nên động niệm. Tôi nay tuổi đã tám lăm, chùa cũng sung túc, sang năm chắc còn thâu hoạch khá hơn, vậy xin Thượng tọa hãy ở lại đây.

Ông mời tha thiết quá, tôi đành ở lại đến hết năm.

QUANG TỰ THỨ 10 – GIÁP THÂN (1884)

Tôi 45 tuổi. Mồng 2 Tết tháng giêng, tôi khởi lễ từ chùa Hồng Phước đến phủ Hoài Khánh rồi quay về chùa ngủ nhờ.

Mồng 3, tôi cáo từ sư Đức Lâm, ông khóc to, bịn rịn mãi, tôi phải hẹn ngày sau gặp lại.

Tôi đến chùa Tiểu Nam Hải ở trong thành phủ Hoài Khánh, nhưng chùa này không cho nghĩ qua đêm, tôi phải ra ngoài thành, ngủ ven đường. Đêm ấy bụng đau dữ dội.

Sáng mồng 4 tôi dậy sớm tiếp tục hành lễ, đến chiều thì phát bệnh lạnh run.

Mùng 5, tôi tuy bị kiết lỵ nhưng vẫn gắng gượng lễ mỗi ngày.

Ngày 13, tôi đến núi Hoàng Sa, gặp một miếu cũ không nóc nằm trên đỉnh. Tới đây thì tôi không thể đi được nữa, đành nghỉ lại. Dù tôi không ăn uống gì mà vẫn đi kiết hoài, mỗi ngày đi cả chục lần, sức lực cạn kiệt, tôi nằm bẹp, hết nhúc nhích.

Miếu ở tít trên đỉnh, không người vãng lai, tôi chỉ còn nằm chờ chết, nhưng lòng không chút hối hận.

Đại Sư phụ sao tới giờ vẫn còn ở đây?

Đến nửa khuya rằm tháng giêng, bỗng thấy có người đốt lửa phía tây vách, tôi ngỡ là bọn phỉ, nhìn kỹ hồi lâu thì ra đó là Văn Cát. Mừng quá, tôi gọi:

-Văn Tiên sinh ơi!

Ông ta cầm lửa đến soi, hỏi:

-Đại sư phụ sao tới giờ vẫn còn ở đây?

Tôi kể cho ông nghe mọi việc. Văn Cát ngồi xuống an ủi và đưa nước cho tôi uống.

Đêm này được gặp Văn Cát, thân tâm tôi đều thanh tịnh.

Ngày 16, Văn Cát đem mớ quần áo nhớp nhúa của tôi đi giặt và cho tôi uống một bát thuốc.

Ngày 17, bệnh thuyên giảm dần, tôi ăn hai chén cháo gạo rang, mồ hôi toát ra, trong ngoài đều khinh an.

Ngày 18, tôi hết bệnh, tạ ơn Văn Cát:

-Hai lần nguy hiếm đến tính mạng đều được Tiên sinh cứu, tôi thật mang ân quá.

Văn nói:

-Chuyện nhỏ mà!

Tôi hỏi:

-Tiên sinh từ đâu đến vậy?

-Từ Trường An.

-Giờ tính đi đâu?

-Về Ngũ Đài.

-Thiệt uổng quá! Tôi bị bệnh, thêm vừa đi vừa lễ nên chẳng được đi cùng với Tiên sinh.

Văn Cát nói:

-Tôi xem Thầy từ tháng chạp năm ngoái đến giờ, rị mọ làm lễ ngoài đường, đi đâu được bao nhiêu, kiểu này bao giờ tới đích? Hơn nữa Thầy lại không khỏe, thật khó hành trì… Thôi! Đừng có lễ nữa!

-Cảm tạ ý tốt của tiên sinh! Tôi vừa chào đời đã không được gặp mẹ, Thân mẫu vì sinh ra tôi mà mất. Cha tôi có mình tôi là con một, nhưng tôi lại trốn đi tu khiến ông buồn, từ quan rồi mệnh chung. Mấy mươi năm nay lòng tôi âm thầm đau xót, áy náy không yên, chỉ biết phát nguyện triều sơn, cầu Bồ-tát Văn Thù gia hộ cha mẹ tôi thoát khỏi biển khổ, sớm sinh về cõi Tịnh. Vì vậy cho dù có gặp trăm tai nạn, nếu không đến được Thánh cảnh Ngũ Đài thì tôi thà chết… chứ quyết không bỏ cuộc!…

Văn Cát nói:

-Hiếu tâm của Thầy kiên cố quá! Giờ tôi về núi cũng không có gì gấp, xin tình nguyện gánh hành lý giùm Thầy, nấu nướng phục vụ, làm bạn đồng hành hỗ trợ để Thầy rảnh tay lễ bái, không bị phân tâm.

-Được vậy thì may quá! Công đức của Tiên sinh quả là vô lượng! Nếu mà tôi lạy được đến nơi, thì công đức này tôi nguyên chia hai: một nửa hồi hướng cho cha mẹ tôi sớm được giác ngộ, còn một nửa xin tặng cho Tiên sinh đế báo đền ân đức….

-Tôi chẳng dám nhận đâu, thầy vì báo hiếu còn tôi thì thuận đường, có gì mà phải mang ân…

Văn Cát chăm sóc tôi thêm bốn ngày nữa thì bệnh khỏi hẳn.

Ngày 19 tháng giêng, tôi khởi sự bái hương. Từ đây hành lý, vật thực… tất cả đều do một tay Văn Cát lo liệu. Tôi nhờ vậy vọng tưởng dừng lặng. Trong, ngoài không vướng bận, lòng an lạc rỗng rang, bệnh hoạn tiêu trừ, thể lực ngày một cường tráng. Từ sớm đến tối tôi có thế vừa đi vừa lạy đến 45 dặm (tương đương 22,5 km), mà không thấy khổ thấy mệt gì.

Y là gì của ông?

Cuối tháng ba, chúng tôi đến chùa Ly Tướng, huyện Thái Cốc. Chào nhau xong, vị Tri khách nhìn trừng trừng vào Văn Cát, hỏi tôi:

-Y là gì của ông?

Tôi thuật lại mọi chuyện, Tri khách cao giọng quở:

-Thầy ra ngoài hành cước mà không thức thời! Mấy năm nay miền Bắc mất mùa đói khổ liên miên thì triều lễ cái quái gì? Thầy có phải là quan lớn đâu mà đến chỗ nào cũng dẫn người hầu kè kè theo? Nếu đã muốn hưởng thụ, thì ở nhà quách đi!?… Còn vác mặt ra đường làm chi? Thầy thấy có chùa nào cho kẻ tục quải đơn không hử?..

Bị quở trách dữ, tôi không dám hó hé, vội xin lỗi, cáo từ thì Tri khách nói:

-Lẽ nào như vậy? Đó là tự Thầy muốn đi, chứ ai đuổi đâu?…

Tôi nghe vậy liền ướm lời:

-Văn tiên sinh tôi sẽ cho ra quán trọ ngủ, phần tôi xin tá túc ở đây một đêm có được không?

-Được!

Văn Cát nói:

-Từ đây đến Ngũ Đài không còn xa nữa, tôi xin phép đi trước, Thầy từ từ đi sau nhé. Hành lý của Thầy không lâu sẽ có người mang lên núi giùm….

Tôi cố lưu Văn Cát lại nhưng không được, bèn lấy tiền biếu tặng, nhưng ông không nhận, từ biệt rồi đi.

Văn Cát vừa khuất dạng thì thầy Tri khách đổi ngay sắc mặt, ra chiều rất hoan hỉ. Ông đích thân xuống bếp làm thức ăn, sốt sắng pha trà, chế mì… bưng lên đãi tôi. Cử chỉ thật quái dị! Tôi dòm quanh chùa, thấy không có ai, thắc mắc hỏi:

-Chúng ở đây được bao nhiêu người?

Ông ta đáp:

-Tôi ở ngoại giang đã lâu, về đây trụ trì, mấy năm nay liên tiếp mất mùa, chùa chỉ còn mình tôi ở, lương thực có thế này thôi. Hành động nãy giờ là đùa chơi, xin Thầy đừng trách nhé!

Tôi nghe ông ta nói mà lỡ khóc lỡ cười, lòng thật xốn xang, ăn qua quýt nửa chén mì rồi cáọ từ, gấp rút đi tìm Văn Cát. Thầy Tri khách năn nỉ tôi ở lại, nhưng tôi đâu còn lòng dạ nào mà nhận lời? Tôi đi khắp các quán trọ hỏi thăm, nhưng tìm không ra tung tích Văn Cát. Hôm ấy là rằm tháng tư, trăng sáng vằng vặc. Tôi nóng lòng muốn đuổi theo Văn Cát nên đi luôn trong đêm, ruột gan nóng như lửa. Vừa đi vừa lễ, cứ nhắm hướng Thái Nguyên mà bước. Hôm sau, đầu tôi bốc hỏa, mũi chảy máu cam ròng ròng.

Ngày 20, tôi đến chùa Bạch Vân ở Hoàng Thổ Câu (chùa này của Phù Thượng tọa). Tri khách thấy tôi miệng đầy máu tươi nên không cho ở. Sáng ngày 21, tôi đến thành Thái Nguyên ghé chùa Cực Lạc, lại bị xua đuổi và không cho tạm trú. Sáng ngày 22 tôi rời khỏi thành, triều lễ đến ngoài cửa Bắc thì gặp một vị Tăng trẻ tên Văn Hiền. Thầy đến gần chào hỏi, đón lấy hành lý, mời tôi ghé vào chùa rồi dọn cơm nước mời, tỏ lòng yêu kính hết mực như đối với người thân.

Tôi hỏi:

-Trông Thầy là người ngoại tỉnh, chỉ hơn hai mươi, vì sao trụ trì ở đây?

Văn Hiền kể:

-Thân phụ con làm quan đã nhiều năm, sau nhậm chức tại phủ Bình Dương, bị gian thần ám hại, Thân mẫu giận quá mà chết, con gạt lệ xuất gia, các quan và thân sĩ ở địa phương này vốn có quen biết với Tiên phụ, nên mời con về đây. Con hiện đang muốn bỏ đi, giờ chứng kiến đạo phong của Ngài, lòng mến mộ lắm, xin Ngài hãy ở lại đây cho con được thân cận.

Tôi giải thích là mình phải thực hiện cho xong đại nguyện triều lễ Ngũ Đài, Văn Hiền rất cảm phục, song vẫn năn nỉ giữ tôi ở lại mười ngày rồi mới cho đi, còn tặng y phục, vật thực và lộ phí, nhưng tôi không nhận, Văn Hiền đành phụ vác hành lý tiễn tôi đến hơn năm cây số rồi mới chịu chia tay, mắt dâng đầy lệ. Hôm ấy là mồng 1 tháng 5.

Vì sao Đại sư lại lễ bái giữa đường?

Tôi nhắm hướng Hàng Châu tiến bước. Một sáng nọ, đang lễ bái trên đường, thì từ đằng sau bỗng có chiếc xe ngựa tiên đến, chạy chầm chậm chứ không vượt qua, tôi thấy vậy bèn tránh qua một bên. Vị quan trên xe bước xuống hỏi:

-Vì sao Đại sư lại lễ bái giữa đường?

Tôi thuật lại nguyên do, vị quan này là người đất Tương, chuyện trò rất tâm đắc. Ông bảo:

-Tôi hiện đang trú tại chùa Bạch Vân ở Nga Khẩu, Thầy triều sơn thế nào cũng đi ngang qua đó, để tôi mang hành lý của Thầy đến đó trước dùm.

Tôi cảm tạ. Ông vái chào rồi cho xe đi.

Từ đây tôi hằng ngày triều lễ, không còn trở ngại gì nữa.

Khoảng trung tuần tháng năm thì tôi đến chùa Bạch Vân, vị quan mang giùm hành lý (là quan Tuần tra) gặp tôi, vui vẻ mời về doanh trại, ưu ái thết đãi. Tôi nghỉ lại đây ba ngày rồi cáo từ, ông cúng dường lộ phí vật thực trọng hậu nhưng tôi không nhận, thế là ông sai binh sĩ mang hành lý đồ đạc của tôi đến chùa Hiển Thông.

Tôi khởi lễ đến núi Khuê Phong, qua các nơi như đảnh Bí Ma, hang Sư Tử, Long động… thấy cảnh non xanh nước biếc xinh đẹp lạ lùng, khó mà tả cho hết, nhưng do bận bái hương nên tôi chẳng thể thưởng ngoạn.

Cuối tháng năm, tôi đến chùa Hiển Thông, lính hầu trao hành lý cho tôi rồi từ biệt.

Đến chùa Hiển Thông, tôi đi dâng hương tại các chùa lân cận, đến đâu cũng hỏi thăm tung tích của anh chàng Văn Cát lạ kỳ nhưng không ai biết. Cuối cùng gặp một lão Tăng, ông chăm chú nghe tôi thuật lại mọi chuyện rồi cung kính chắp tay nói:

-Đó chính là hóa thân của Bồ-tát Văn Thù.

Tôi chỉ còn biết đảnh lễ cảm tạ.

Ngày 22 tôi khởi hương, lạy hai ngày thì đến Đông Đài, đêm ấy trăng sao sáng rực, tôi lên Thạch thất dâng hương, ở đó sớm tối lễ tụng, tọa thiền bảy ngày rồi mới đi xuống lễ hang động Na La Diêm, tới đây thì lương thực vừa hết.

Mồng 1 tháng 6, tôi quay về chùa Hiển Thông.

Mồng 2, tôi khởi sự triều lễ lên đỉnh Hoa Nghiêm, ở lại đó một đêm. Mồng 3 lễ Bắc Đài rồi nghỉ qua đêm tại Trung Đài. Mồng 4 lễ Tây Đài, ở qua đêm. Mồng 5 trở về chùa Hiển Thông.

Mồng 7, lễ Nam Đài, ở đây đả thất. Đến ngày 15 trở về chùa Hiển Thông, tham gia Hội Đại Phật tháng sáu.

Ba năm bái hương cầu siêu cho song thân đã xong. Trong ba năm này, trừ những lúc tật bệnh, phong vũ tuyết sương cũng không thể ngăn tôi triều lễ, trên đường tôi luôn nhất tâm chánh niệm. Hành trình lễ bái tuy có gặp nhiều gian nan, nhưng lòng nhẹ nhàng, hoan hỷ. Nhờ cảnh mới biết được tâm. Càng vấp phải đắng cay, càng tỉnh giác, an ổn. Nhờ vậy mới hiểu được lời người xưa: “Tiêu được một phần tập khí liền được một phần quang minh, nhẫn được mười phần phiền não liền có chút ít Bồ-đề”.1

Suốt lộ trình hành lễ tôi đi qua không biết bao nhiêu danh lam thắng cảnh, từ Phổ Đà đến Giang Triết, Trung Châu, Hoàng Hà, Thái Hành… khó mà kể cho hết. Các tập du ký xưa nay dù có tường thuật tỉ mỉ các cảm tưởng, nhưng xem ra không thể nào bằng kinh nghiệm của chính mình trải qua. Tôi được tận mắt chứng kiến thắng cảnh Thanh Lương ở Ngũ Đài, ngắm cảnh phóng hào quang ban đêm của Đức Văn Thù, trèo lên núi cao nghìn trượng rét căm căm có tuyết phủ ngàn năm… qua cầu đá cheo leo miệng vực, chiêm ngưỡng lầu các tuyệt mỹ… là những cảnh không nơi nào sánh được. Tôi do bận bái hương nên không kịp thưởng ngoạn, đến khi ước nguyện đã hoàn thành, tôi mới từ từ cất bước ngao du…

Bình:

Khi gặp Văn Cát lần hai, được Văn Cát săn sóc chăm lo cho Sư (từ 15/1 đến 18/4) tính ra hơn ba tháng, đến cuối tháng 5 thì Sư đến Ngũ Đài. Trong suốt ba năm triều lễ, Văn Cát đã xuất hiện cứu nguy Sư kịp thời. Hòa thượng Hư Vân đi đến đâu thường là được người quý mến, muốn nương tựa. Nhưng đối với Văn Cát (người đã xuất hiện với thân phận một gã ăn mày) Sư lại ở vào thế tùy nương phụ thuộc rất mạnh. Lúc gặp Văn Cát, Sư có được cảm giác an ổn, thân tâm thanh tịnh. Đây là điểm lạ thứ nhất.

Điểm lạ thứ hai là – trời lạnh cóng, tuyết rơi mịt mù che hết lối đi, trên đường không bóng người qua lại, thế mà ông ăn mày vẫn đi tự nhiên tự tại, không hề lạc, chính ông để lại dấu chân dẫn đường cho ngài Hư Vân đi khỏi lạc. Nếu không phải là Bồ-tát tại sao ông luôn xuất hiện cứu nguy rất kịp thời? Câu đầu tiên trong lần gặp đầu, Văn Cát đã giới thiệu về mình:- “ở Ngũ Đài, ai cũng biết tôi”. Lần thứ hai, gặp ngài Hư Vân bị bênh kiết lỵ tức nhiên có lúc đi tướt không cầm được, và quần áo nhớp nhúa ấy do một tay Vãn Cát giặt. Sau đó Văn Cát đảm trách phục dịch hết, từ nấu ăn, gánh hành lý… ngài Hư Vân chỉ việc lễ lạy thôi. Nhờ gã ăn mày làm thị giả nên suốt ba tháng ròng lộ trình Sư đi bình an, vậy mà khi tới chùa Ly Tướng, “ai” đã xui khiên để vị Tru trì có thái độ quái lạ chỉ muôn đuổi Văn Cát đi, đuổi xong thì rất hớn hở – Phải biết trong thời gian này, ngài Hư Vân nương vào Văn Cát rất mạnh, Văn Cát là ăn mày, về Ngũ Đài không có chuyện gì bận gấp, thì lấy cớ gì để rời xa ngài Hư Vân đây? – vì khi hành trình đã êm, chướng nạn đã hết, thì Văn Cát không cần phải giúp nữa, đã đến lúc Văn Cát phải rút lui, thì thái độ đuổi xua (tưởng như quái dị) của vị Trụ trì Ly Tướng hóa ra lại “tháo gỡ” cho Văn Cát rất hợp thời. Thêm nữa, Văn Cát đã bảo ngài Hư Vân: “Từ đây đến Ngũ Đài không còn xa nữa, tôi xin phép đi trước, Thầy từ từ đi sau nhé. Hành lý của Thầy không bao lâu sẽ có người mang lên núi giùm”…

– Tại sao Văn Cát biết là sẽ có người mang giùm? – Nguyện lớn của ngài Hư Vân nếu được Văn Cát giúp đỡ tới đích thì sẽ không còn hay nữa… Dù rút lui nhưng Văn Cát vẫn trấn an, nói trước những gì sắp xảy ra cho Hư Vân yên tâm. Một gã ăn mày tầm thường sẽ không làm được như Văn Cát, bởi vì từ lúc bắt đầu bái hương, có bốn vị đi theo Hư Vân phù trợ, nhưng chẳng bao lâu họ thối lui hết, còn Văn Cát theo Hư Vân, phải giặt giũ nấu nướng, gánh hành lý, công việc không nhàn nhã song Văn Cát thực hiện rất chu đáo.

Chỉ có ngài Hư Vân là chưa ý thức được Bồ- tát giúp mình, sự tùy nương vào Văn Cát mạnh mẽ quá, khiến Ngài nóng ruột nóng gan nôn nao tìm kiếm Văn Cát đến đầu bốc hỏa, mũi chảy máu..

Thói thường “người nhỏ thích nương người lớn”, vì vậy mà đa số các tu sĩ khi gặp Hư Vân đều muốn theo, đều bày tỏ tâm nguyện muốn nương tựa thân cận Ngài, còn ngài Hư Vân thì sung sướng nương tựa, thân cận ông ăn mày Văn Cát, bởi ông đem đến cho Ngài niềm bình an, cảm giác thanh tịnh cả thân lẫn tâm. Cảm giác này ta chỉ có được khi đứng trước các bậc minh sư Thánh triết, những bậc Thầy vĩ đại. Ta thấy rõ Bồ-tát gặp ta không hề xưng Bồ-tát hay Thánh gì… các Ngài thường hóa hiện ở thân phận thấp kém nhất, nhưng thân phận địa vị chỉ là áo khoác, danh xưng. Quan trọng là cung cách ứng xử. Dù khoác chiếc vỏ ngoài thấp kém đến đâu, cung cách các vị Bồ-tát luôn vị tha, từ ái… có đầy đủ tính cách của một bậc Thượng nhân. Chính hấp lực của cung cách Thượng nhân này, đã đặt ngài Hư Vân (vốn là bậc Thánh tái thế) cũng phải ở vào vị trí tùy nương! Bởi vậy, giá trị của người ta không nằm ở địa vị chức danh mà ở phẩm cách. Trước ngài Hư Vân, gã ăn mày Văn Cát thấp kém lại thành điểm tựa vững vàng, mạnh mẽ hỗ trự chở che, ban cho niềm an ủi không cùng – Bồ tát là vậy đó! – Trong thực tế, một ăn mày vốn yếu đuối, sống nhờ vào sự giúp đỡ của người sẽ không làm được như Văn Cát. Văn Cát hiện thân là ăn mày, song sự xuất hiện của ông là cứu người, giúp đỡ, ủi an… Thế nên trong dòng đời, khi gặp những người thấp kém ta chớ có coi thường, Phật luôn nhắc nhở khi giao tiếp nên cung kính Phật tính có sẵn ở mỗi người, mới tránh được lầm lỗi. (LND)


CHƯƠNG 4: DU NGOẠN (HƯ VÂN NIÊN PHỔ)

Đại hội viên mãn, tôi lên đảnh Đại Loa, lễ đèn Trí Huệ. Ngày mồng 10 tháng bảy, tôi lễ tạ Bồ-tát Văn Thù rồi xuồng núi. Từ đỉnh Hoa Nghiêm, tôi nhắm hướng Bắc thẳng tiến.

Đến phủ Bình Dương (Lâm Phần) lễ Nam Bắc Tiên động, ở thành phía Nam có miếu vua Nghiêu xây rất tráng lệ.

Đi về hướng Nam đến Bồ Châu lễ miếu Hán Thọ Đình Hầu (Quan Thánh Đế).

Qua sông Hoàng Hà, vượt Đồng Quan, tôi vào đất Thiểm Tây. Đến Hoa Âm lên núi Thái Hòa, lễ miếu Tây Nhạc Hoa Sơn, thấy các cảnh đẹp rất nhiều. Tôi đến núi Thủ Dương, dạo một vòng quanh đất Thiểm, thăm chùa Quan Âm phía Tây Nam Hương Sơn và viếng mộ Trang Vương.

Vào đất Cam Túc, qua Kinh Xuyên, Bình Lương… Đến núi Không Động thì gần hết năm, tôi trở về Hương Sơn ở qua năm.

QUANG TỰ 11 (1885) ẤT DẬU – 46 TUỔI

Mùa xuân này, tôi rời Hương Sơn đi về phía Tây đến ải Đại Khánh vào đất Thiểm, qua Diệu Châu, Tam Nguyên, đến Hàm Dương xem cây cam đường của Triệu Bá. Đến Trường An, ngắm kinh thành hùng vĩ, xem nhiều di tích xưa. Trong thành có chùa Đại Từ Ân và tháp Đại Nhạn, tháp cao bảy tầng, từ đời Đường và các đời sau đều có đề bia, phía trước là rừng bia có hơn 700 cái. Phía Đông thành là cầu Bá Kiều, trên cầu có đình Chiết Liễu.

Đến chùa Hoa Nghiêm lễ tháp Hòa thượng Đỗ Thuận và Quốc sư Thanh Lương.

Đến chùa Ngưu Đầu, chùa Hưng Quốc, lễ tháp sư Huyền Trang.

Qua núi Chung Nam, phía Đông Ngũ Đài, thăm núi Hương cổ, chùa Bảo Tạng, Bạch Thủy Lãng. Nơi đây có hai vị Thánh tăng ở ẩn. Tôi đến thăm hang Ngũ Tổ, Ngân Động Tử ở Ngũ Đài.

Đến phía Nam Ngũ Đài gặp các bậc Thượng nhân, chư vị cất am tranh nơi đây, mời tôi cùng ở. Pháp Nhẫn ở hang Lão Hổ, Dã Khai ở Long Thung, Pháp Tánh ở Động Tương Tử, tôi cùng với Giác Lãng, Thế An ở Đại Mao Bồng.

Mồng 1 tháng 3, buổi sớm, phía sau điện bỗng thấy tinh tú bay loạn xạ, sao chổi hiện rõ trên nền trời, giây lâu mới mất, chẳng rõ là điềm gì?

Năm ngoái chiến tranh Trung-Pháp bắt đầu, năm này ký Hòa ước cắt An Nam thuộc Pháp.

QUANG TỰ 12 BÍNH TUẤT (1886) 47 TUỔI

Năm này Anh giao thiệp với Miến Điện.

QUANG TỰ 13 ĐINH HỢl (1887) 48 TUỔI

Trong hơn hai năm qua tôi ở trong am tranh phía Nam Ngũ Đài, cùng chư Sư đồng tu trao đổi kiến giải rất hữu ích.

Tháng 2, tôi hạ sơn đến núi Thúy Vi, lễ chùa Hoằng Dũ, viếng núi Thanh Hoa, qua chùa Tịnh Nghiệp núi Hậu An, lễ tháp Tuyên Tổ, đến chùa Thảo Đường lễ đạo tràng của Pháp sư Cưu Ma La thập.

Đi thăm núi Thái Bạch cao tới 54.000m, đã tháng sáu rồi mà tuyết vẫn chưa tan, tôi đến thăm các chùa Nhị Bản, Đại Bản, lên đỉnh ngắm hồ Đại Long. Qua phủ Hàn Trung thăm Bái Tướng Đài của Hán Cao Tổ, viếng Bao Thành Miếu của Gia Cát Lượng, chiêm ngưỡng Ngọn đèn vạn niên của Trương Phi cùng các thắng cảnh nổi tiếng.

Đến phía Nam huyện Tân Đô, Quảng Hán, tôi ở lại chùa Bảo Quang đến hết năm.

Năm này vào đất Xuyên, đi lang thang một mình. Một bát, ba y ngao du sơn thủy, hoàn toàn không vướng bận, cảnh cũng giúp thanh tâm.

QUANG TỰ 14 MẬU TÝ (1888) 49 TUỔI

Tháng giêng, tôi đi từ chùa Bảo Quang vào Thành Đô, lễ viện Văn Thù chùa Chiêu Giác, viếng cung Thanh Dương chùa Thảo Đường, đi qua hai con sông ở Hoa Dương, rẽ về phía Nam đến huyện Mi Sơn, Hồng Nhã.

Đến núi Nga My, tôi lên Kim Đỉnh dâng hương. Ban đêm chiêm ngưỡng hào quang Phật, thấy chiếu sáng như có vạn ngọn đèn, giống hệt ngàn sao tụ hội. Các thắng cảnh nơi đây thật khó mà tả hết được.

Vào chùa Bảo Quang, tôi tham học vói Thượng nhân Ứng Chơn, ở lại mười hôm rồi đến chùa Vạn Niên, lễ Điện Tỳ Lô.

Tháng 5, tôi qua sông Lô, đến Nhã An, qua sông Đại Độ, phải vượt cầu Lô Định làm bằng dây cáp cao hơn 30 trượng. Ai qua sông này cũng hồi hộp sợ mất vía.

Tôi đi về hướng Tây, qua Để-tiển-lô, Lý Đường, Ba Đường, về hướng Bắc đến Sát-mộc-đa (tức Xương Đô), phía Tây đến Thạc Đốc, Lạp Lý… Vùng này đất rộng người thưa, gồm các sắc dân như: Hán, Tạng, Phồn, Mông, Di… Dao, Đồng… ngôn ngữ phức tạp khó nghe. Người nói được tiếng Hán rất ít. Ở Lý Đường có núi Thần-công-cát là Thánh địa của Lạt- ma giáo. Ở Ba Đường, có nhiều núi non cao hiểm trở. Sát-mộc-đa thì có nhiều sông ngòi. Các sắc dân này hầu hết theo Lạt-ma giáo.

Từ Lạp Lý tôi đi đến Giang Đạt vượt qua vùng này là đến lãnh thổ của Tây Tạng.

Vào đất Tạng, qua sông Điểu Tô, đến thủ đô Lạp Tát (Lhassa) của Tây Tạng – Trung tâm hành chính tôn giáo của toàn quốc.

Vùng Tây Bắc của núi Đạt-bô-lạp có cung điện Potala cao 30 tầng, sắc vàng lóa mắt, xây cất trang nghiêm, đây là nơi đức Phật sống Đạt-lai-lạt-ma cư ngụ và thuyết giảng. Có hai mươi ngàn Lạt-ma tu học ở đây. Vùng phụ cận có ba ngôi chùa lớn là Cát-nhĩ-đan, Biệt-bạn, sắc-lạp, mỗi chùa có hơn ngàn tăng chúng. Tôi không rành tiếng Tạng nên chỉ đến các chùa dâng hương và lễ Đức Phật sông mà thôi.

Rồi tôi đi về phía Tây, qua Công-cát, Giang-tư, đến Nhật-khách-tắc (Tashihunpo). Phía Tây vùng này có chùa Tashihunpo kiến trúc hoành tráng đẹp đẽ, rộng đến mấy dặm, là Trung Tâm Tôn Giáo Hành Chính thứ nhì của Tây Tạng do các vị Ban Thiền lãnh đạo, có khoảng bốn-năm ngàn vị Lạt-ma.

Từ đất Xuyên vào Tây Tạng, tôi đi hết một năm, mặt trời mọc thì đi, mặt trời lặn thì nghỉ, trèo đèo lội suối, nhiều ngày không gặp bóng người, ở đây chim thú nhìn đã khác Trung Nguyên, mà phong tục còn kỳ lạ hơn. Tăng chúng phần đông không giữ giới luật, pháp phục có hai màu, chia thành hai phái: Mũ Đỏ và Mũ Vàng. Mỗi phái đều có tự viện đồ đệ riêng. Nghĩ đến Hội chúng Kỳ Viên ngày xưa, tôi chỉ biết thở dài, rơi lệ. Cuối năm tôi trở về Lạp Tát.

QUANG TỰ 15 KỶ SỬU (1889) 50 TUỔI

Đầu xuân tôi đi về phương nam. Qua Lạp Tát – cửa khẩu quan trọng nhất giữa Tây Tạng và Ấn Độ – Tôi đến nước Bất Đan (Bhutan), vượt qua dãy núi đồi trùng điệp, chẳng biết tên gì, có thể là Thông Lãnh hay Tuyết Sơn .

Đến thành Dương Phủ, chiêm bái di tích Phật. Ghé hải cảng Mãnh-gia-lạp (Bangladesh), qua Tích Lan, chiêm bái các Thánh địa. Xong, tôi đi thuyền sang Miến Điện, lễ tháp Đại Kim. Đến Ma-la-miên Cát-tân-lợi, thấy nơi đây có một phiến đá to rất lạ, tương truyền là nơi Tôn giả Mục-liên ngồi thiền, người đến chiêm lễ rất đông.

Tháng 7 tôi bắt đầu về nước, từ Lạp Thú tới Hán Long Quan, Vân Nam, qua Lăng Ninh Long, Triệu Châu Ha Quan… đến Đại Lý, tôi viếng hồ Nhĩ Hải (hồ mang tên như vậy vì du khách đến tham quan sẽ được nghe tiếng sóng bạc vỗ trầm hùng, âm thanh vang xa đến mấy dặm, đây là một kỳ quan!)…

Tâm nguyện chính của tôi trên đường về là được viếng núi Kê Túc chiêm lễ Tôn giả Ca-diếp (đang nhập định chờ ngài Di Lặc hạ sinh). Vượt qua hồ Nhĩ Hải tôi đi về hướng đông bắc, qua Oạt Sắc, Bách Đát, Bình Sa, Sơn Giác, đi khỏi miếu Đại Vương An Na thì đến phường Nhất hội Linh Sơn, (tức Kê Túc Sơn Lộc). Giữa núi có khoảng đất bằng tên Minh Ca, tương truyền khi Tôn giả Ca-diêp vào núi, tám vị quốc vương đi theo tiễn Ngài đến đây rồi không chịu quay về, cùng ở lại tu hành, thành Thần hộ pháp nên mới có tên Miếu Đại Vương.

NGÀI LÀ BẬC KỲ NHÂN?

Tôi leo thẳng lên điện Ca-diếp, trong điện có thờ tượng Ngài. Nghe kể rằng khi Tôn giả A-nan đến đây lễ bái thì cửa đá tự mở, Ngài nhìn thấy khung cảnh bên trong rất trang nghiêm kỳ ảo và Tôn giả Ca-diếp đang ngồi nhập định. Cửa đá này có tên là Hoa Thủ, cao mười mấy trượng, rộng hơn mười trượng. Khi tôi đến chiêm ngưỡng thánh cảnh trên núi, thấy rõ ràng trên vách đá có in một lằn, vết tích nhìn giống như hai cửa thành khép lại. Hôm ấy, du khách đến tham quan nườm nượp, họ đi cùng các hướng dẫn viên. Lúc tôi đến thắp hương viếng lễ, bỗng nghe ba tiếng đại hồng chung ngân vang rõ to, dân bản xứ ở đây thảy đều hò reo, vui mừng lễ bái và phát biểu rằng: “Hễ có Thánh nhân đến thì Đại chung sẽ tự ngân rền như vậy, âm thanh của chuông, mõ chúng tôi đã được nghe vài lần, nhưng chưa bao giờ được nghe tiếng Đại hồng chung gióng lên như thế này, Ngài ắt là bậc Kỳ nhân?…

Tôi cảm ơn, không dám nhận. Hôm ấy là ngày 30 tháng 7 năm Kỷ Sửu (1889).

Tôi lên đỉnh Thiên Trụ, đây là chỗ cao nhất núi, từ chân núi lên đây ước chừng 30 dặm, có một Điện bằng đồng, một tòa Tháp Lăng Nghiêm, theo tài liệu thì toàn núi có 360 am, 72 chùa lớn., nhưng đến nay tất cả tính ra còn không đến mười chùa, Tăng chúng không khác gì người đời, sống theo kiểu cho con cháu kế thừa sản nghiệp. Và nếu không phải là con cháu của bản sơn thì đừng hòng được ở, họ tuyệt đối không cho khách Tăng trú ngụ qua đêm. Tôi nghĩ đến pháp hội hưng thịnh thời xưa rồi nhìn cảnh suy tàn hiện tại, chỉ biêt áo não xót xa. Rất muốn ra tay chỉnh đốn, nhưng chưa biết sẽ bắt đầu như thế nào.

Tôi xuống núi theo đường Lương Vương Sơn, đến huyện Vân Nam, qua núi Thủy Mục, Linh Thứu, Tử Khê, đến phủ Sở Hùng, ngoài Tây môn có chùa Cao Đảnh, tôi bèn ngụ lại đây.

Lúc tôi mới đến nơi thì không ai biết, chỉ nghe mùi hương lan tỏa thơm ngào ngạt khắp chùa, vị Tăng chấp sự vội bước ra vái chào, cung kính thưa:

– Thượng tọa đến lan tiên phả hương thơm ngát, thật quá đỗi lạ kỳ?… tôi từng nghe truyền thuyết kể rằng: “Núi này có loài lan tiên lạ lắm, chưa ai thấy qua hình dạng nó như thế nào, nhưng hễ có bậc Chân nhân cao hanh đến thì nó tỏa hương”… Hôm nay hương lan thơm ngào ngạt, xông khắp núi, chắc chắn là do đức của Ngài chiêu cảm nên!”

Họ tiếp đãi rất ân cần và nài nỉ mời tôi ở lại. Tôi nôn trở về đất Tương nên nhã nhặn từ chối, chỉ nghỉ lại một đêm rồi lên đường.

Tôi đi khắp nơi, từ phủ Côn Minh, Khúc Tịnh v.v… Đến Vũ Xương, Hồ Bắc, lễ Hòa thượng Chí Ma chùa Bảo Thông và học pháp Sám Đại Bi.

Đến Cửu Giang tôi vào Lô Sơn lễ Hòa thượng Chí Thiện ở chùa Hải Hội, tham gia Hội niệm Phật.

Qua An Huy dạo chơi nơi Hoàng Sơn, đi viếng núi Cửu Hoa, lễ tháp Bồ-tát Địa Tạng Vương, thăm cung Bách Tuế, lễ Hòa thượng Bảo Ngộ (Ngài là bậc giới hạnh tinh nghiêm, định lực bậc nhất).

Rồi tôi qua sông, đến núi Bảo Hoa, lễ Hòa thượng Thánh Tính, ở đây cho đến hết năm.

Trong khoảng hai năm này, tôi đi nghìn dặm, trừ lúc qua biển phải dùng thuyền, còn lại toàn là lội bộ. Tôi trèo đèo lội suối, xông pha sương tuyết gió mưa, vượt qua sỏi cát núi ghềnh… ngắm quang cảnh thời tiết đổi thay mà trăng tâm hằng sáng. Thể lực ngày một cường tráng, cất bước nhẹ nhàng chẳng thấy mệt.

QUANG TỰ 16 CANH DẦN (1890) 51 TUỔI

Tôi đến Nghi Hưng lễ Hòa thượng Nhân Trí chùa Hiển Thân, ở đây qua mùa hạ. Xong, đến Cú Dung lễ Hòa thượng Pháp Nhẫn, phụ Ngài tu bổ chùa Xích Sơn, ngụ lại hết mùa đông.

QUANG TỰ 17 TÂN MÃO (1891) 52 TUỔI

Tôi đến Kim Lăng kết bạn với Hòa thượng Tùng Nghiêm giúp Ngài tu bổ chùa Tịnh Thành và đàm đạo với cư sĩ Dương Nhân Sơn về Nhân Minh Luận, Bát Nhã Đăng Luận, ở chùa Tịnh Thành hết mùa đông.

QUANG TỰ 18 NHÂM THÌN (1892) 53 TUỔI

Tôi hẹn với sư Phổ Chiếu, Nguyệt Hà, Ấn Liên, cùng lên núi Cửu Hoa, sửa lai các am tranh nơi núi Thúy Phong và trụ ở đây tu.

Sư Phổ Chiếu giảng kinh Hoa Nghiêm, xiển dương tông Ngũ Giáo Nghi của ngài Hiền Thủ vốn đã bị mai một từ lâu. Các nơi nghe giảng tìm đến tham dự rất đông khiến giáo lý của ngài Hiền Thủ từ đây được phục hưng ở vùng Giang Hạ này.

QUANG TỰ 19 (1893) QUÍ TỴ 54 TUỔI

Tôi nghiên cứu kinh giáo tại núi Thúy Phong, mùa hè năm nay Pháp sư Đế Nhàn đến nhập hạ ở đây. Mãn hạ tôi đến Kim Sơn ở hết mùa đông.

QUANG TỰ 20 GIÁP NGỌ (1894) 55 TUỔI

Năm này chiến tranh Trung-Nhật phát khởi.

QUANG TỰ 21 ẤT MÙI (1895) 56 TUỔI

Trụ trì chùa Cao Mân ở Dương Châu là Nguyệt Lãng đến Cửu Hoa báo tin: Năm nay ở Cao Mân có thí chủ họ Châu thiết lập pháp sự, đã mở được bốn thất rồi, hiện muốn tổ chức cho đủ 12 thất. Lão pháp nhân Xích Sơn đã trở về chùa. Mọi người đều được mời về núi. Gần đến hạn kỳ, ai cũng bảo tôi xuống núi trước.

Tôi đến bến đò Đại Thông, đi men theo bờ sông, gặp lúc con nước dâng to, lái đò đòi tới sáu đồng mà túi tôi chẳng có được một đồng nên anh ta bỏ đi thẳng.

Ôi trời ơi! Sư Đức Thanh đây mà!

Tôi đành đi dọc theo bờ sông, đang bước thì trợt chân ngã xuống sông, chìm nổi suốt một ngày đêm, trôi đến bến Thải Thạch thì được các ngũ phủ vớt lên và báo cho Tăng chúng chùa Bảo Tích đến nhận. Các thầy đến nhìn, kinh hoảng kêu lên: “Ôi trời ơi! Sư Đức Thanh đây mà!” Họ vội vã khiêng tôi về cứu tỉnh. Hôm ấy là 28 tháng 6. Lúc này thân thể tôi thất khiếu đều ra máu. Nhưng chỉ tịnh dưỡng được vài ngày (vì phải đi Cao Mân).

Đến Cao Mân, thầy Tri sự thấy dung nhan tôi thảm hại, ngạc nhiên hỏi:

-“Có bệnh gì chăng?

– Tôi đáp:

– “Dạ không”.

Rồi lên yết kiến Hòa thượng Nguyệt Lãng. Thăm hỏi việc chùa xong, tôi được bầu làm chức sự. Tôi từ chối, chẳng kể chuyện mình bị té sông, chỉ xin được vào Thiền đường dự khóa đả thất tu tập.

Gia phong Cao Mân nghiêm lắm, được mời làm chức sự mà không tuân thì bị kết tội khinh mạn đại chúng, phải chịu đánh phạt. Tôi lẳng lặng nhận đòn, không phân trần gì, nhưng bệnh tôi trở nặng, thất khiếu máu chảy không ngừng, chỉ nằm chờ chết.

Tôi ở Thiền Đường, ngày đêm tinh cần thanh tâm, nhất niệm, chẳng cần biết đến thân xác ra sao. Hơn hai mươi ngày thì các bệnh tự khỏi. Bấy giờ sư Trụ trì Đức Ngạn ở bển Thải Thạch đến, mang theo y phục, vật thực đến cúng dường… nhìn thấy tôi mặt mày sáng rỡ, ông vui mừng hỏi thăm, an ủi… và thuật lại việc tôi bị té sông cho mọi người nghe, ai nấy đều cảm phục, không còn bắt tôi làm chức sự nữa.


CHƯƠNG 5: NGỘ ĐẠO (HƯ VÂN NIÊN PHỔ)

Tôi được rảnh rang tu, từ đây muôn niệm đều dứt, công phu ngày đêm như một, hành động nhanh nhẹn như bay.

Một đêm, trong lúc thắp hương, tôi mở mắt nhìn, bỗng thấy trời sáng như ban ngày, nhìn xuyên suốt cả trong lẫn ngoài. Cách một bức vách tôi còn thấy rõ vị sư Hương đăng đang đi tiểu và một vị Sư khác đang ngồi trong cầu, tôi còn thấy luôn ghe thuyền đang lướt trên sông tận tít đằng xa… thấy luôn màu sắc cây cối hai bên bờ ra sao, mỗi mỗi đều rõ ràng. Lúc này, tiếng bảng đang báo hiệu canh ba.

Sáng ra, tôi hỏi thăm các vị liên quan đến cảnh thấy của mình hồi khuya thì đúng y như vậy. Tôi biết đây chỉ là cảnh, không cho là kỳ lạ.

Đến tháng chạp, vào buổi tối thứ ba của tuần thất thứ tám, khi tôi đã ngồi đến nén hương thứ sáu, thì vị hộ thất pha trà rót nước sôi làm văng trúng tay tôi, chén trà rơi xuống đất vỡ tan, vang lên thành tiếng, gốc nghi trong tôi ngay đây dứt sạch, cảm giác thật khoan khoái tuyệt vời! Tôi giống như người vừa tỉnh mộng, tự nghĩ mình xuất gia phiêu bạt ngót mấy mươi năm… nhớ lúc ở chòi tranh Hoàng Hà, bị anh chàng thế tục hỏi một câu, chẳng biết đường mà nói… Nếu như khi đó tôi đá nhào cả nồi lẫn bếp, xem anh chàng Văn Cát thốt lời gì? Lần này, nếu không bị té sông rồi bệnh nặng, nếu không nhờ gặp thuận cảnh, nghịch cảnh và các thiện tri thức giáo hóa cho, e là sẽ còn lầm lạc cả đời, đâu có được như sáng hôm nay.

Nhân đó, tôi làm bài kệ:

Bôi tử phốc lạc địa
Hưởng thinh minh lịch lịch
Hư không phấn toái đã
Cuồng tâm đương hạ tức.

Chén trà rơi xuống đất
Vang thành tiếng rõ ràng
Hư không đà vỡ nát
Cuồng tâm ngay đây tan

Bài kệ tiếp theo:
Đãng trước thủ, đả toái bôi
Gia phá, nhân vong, ngữ nan khai
Xuân đáo hoa hương xứ xứ tú.
Sơn hà đại địa thi Như Lai.

Phỏng tay rơi chén vỡ tan rồi
Nhà nát người tan khó mở lời
Xuân đến hoa thơm, nơi nơi đẹp
Núi sông trời đất là Như Lai.

Năm này ký điều ước Mã Quan, cắt Đài Loan, Liêu Nam cho Nhật Bản.

QUANG TỰ 22 BÍNH THÂN (1896) 57 TUỔl

Mùa hạ tôi đến chùa Kim Sơn, Trấn Giang ở qua kỳ giới. Hòa thượng Đại Định giữ ở lại hết mùa đông.

QUANG TỰ 23 ĐINH DẬU (1897) 58 TUỔI

Từ Kim Sơn tôi đến Lãng Sơn, lễ tượng Bồ-tát Đại Thế Chí rồi trở về, được Hòa thượng Đạo Minh mời đến Dương Châu giúp việc cho chùa Trùng Ninh.

Tháng tư, Pháp sư Thông Trí giảng Kinh Lăng Nghiêm tại Tiều Sơn, thính chứng có đến nghìn người. Sư mời tôi phụ giảng. Giảng xong, tôi từ giã xuống núi.

Lễ xá-lợi

Tôi vừa sinh ra đã mất mẹ, chưa một lần được thấy từ dung, ở nhà chỉ nhìn di ảnh, mỗi khi nghĩ đến đây, lòng đau như cắt. Vì vậy, tôi phát nguyện đến chùa A Dục Vương lễ xá-lợỉ, đốt tay cúng dường Phật, cầu siêu cho mẹ. Tôi đến Ninh Ba gặp sư Huyền Nhân cùng sư Ký Thiền đang hộ trì chùa Thiên Đồng, còn sư Hải Ngạn lo chỉnh lại sử sách chùa A Dục… ai cũng rủ tôi trợ giúp, nhưng tôi đang có nguyện riêng nên từ chối hết.

Mời mẹ cỡi rồng đến Tây Phương

Tôi phát nguyện lễ xá-lợi, ấn định mỗi ngày lạy ba ngàn lạy, sáng sớm bắt đầu từ thức chúng đến giờ nghỉ ban đêm. Tôi không dùng bồ đoàn hay trải tọa cụ gì. Một đêm nọ, trong lúc tọa thiền, giống như mơ mà không phải mơ, tôi thấy có một con rồng vàng dài mấy mươi thước, vảy óng ánh lấp lánh bay từ trên không đáp xuống ao Thiên Trì trước Điện thờ xá-lợi. Tôi cỡi lên lưng rồng và nó bay thẳng lên không trung, đến một nơi sông núi đẹp lạ lùng, có lầu các cung điện cực kỳ nguy nga tráng lệ, cảnh trí rất đẹp xinh, có đủ kỳ hoa dị thảo… tôi thấy mẹ tôi đang ở trên lầu nhìn xuống, tôi mừng rỡ gọi to: “Mẹ ơi! Mời mẹ cỡi rồng đến Tây Phương”. Rồng liền hạ xuống. Tôi chợt tỉnh. Cảm giác thân tâm thật nhẹ nhàng, khoan khoái. Cảnh tượng vừa rồi tôi còn nhớ rõ như in. Trong đời, chỉ duy nhất lần này là tôi được thấy từ dung của mẫu thân.

Từ đó, mỗi lần có người đến xem xá-lợi, tôi đều tham gia. Mỗi người đều có cảm nhận khác nhau. Tôi được xem nhiều lần, thấy xá-lợi biến đổi luôn. Mới đầu, tôi thấy xá-lợi nhỏ như hạt đậu xanh, màu đen tía. Đến rằm tháng mười, khi lạy xong hai tạng xá-lợi, tôi xem lại, thì thấy xá-lợi vẫn vậy nhưng đã đổi sang màu đỏ, chiếu sáng rực rỡ. Tôi lễ tiếp tục, gấp rút, ráng cho được nhiều lạy hơn để xem thử… Lúc này toàn thân tôi đều đau đớn, nhưng đã thấy xá-lợi có hai màu: nửa vàng, nửa trắng và to bằng hạt đậu vàng. Lúc này tôi mới tin và chắc chắn rằng hình dáng xá-lợi hiện tùy theo căn thức và nghiệp của mình chiêu cảm. Tôi nôn nóng thử nghiệm, càng gia tăng lễ lạy cho đến tháng mười một… Kết quả: tôi bị bệnh nặng, không thể lạy được nữa. Bệnh mỗi ngày một trầm trọng, tôi phải vào Như Ý Liêu điều trị, song tất cả thuốc men đều vô hiệu, tôi nằm liệt giường, không sao ngóc dậy nổi.

Ai cũng cho là phần số tôi sắp mãn

Lúc này, Thủ tọa Hiển Thân, Giám viện Tông Lượng cùng Lư cô nương… tìm đủ cách để cứu tôi… thảy đều hao tài tốn sức mà chẳng có kết quả. Ai cũng cho là phần số tôi sắp mãn. Tôi cũng nghĩ vậy, lòng canh cánh nỗi lo thệ nguyện đốt tay chẳng thực hiện được nên rất buồn.

Ngày 16, có tám người (từng phát nguyện đốt tay) vào liêu thăm tôi, họ nghĩ là bệnh tôi còn gượng được nên có ý nán đợi tôi cùng làm lễ. Tôi biết là sáng mai lễ thiêu tay sẽ cử hành, bèn nài nỉ xin được tham gia. Phần đông đều không bằng lòng vì sợ tôi bị nguy hiểm. Tôi khóc như mưa, nói:

– Sinh tử là chuyện chẳng ai tránh khỏi, tôi vì muốn báo ân cha mẹ nên mới phát nguyện đốt tay, nếu giờ vì bệnh, vì sợ nguy hiểm mà bỏ cuộc thì cho dù tôi được sống cũng chẳng ích gì, thà tôi được dự lễ mà chết, còn hơn là nằm ở đây…

Giám viện Tông Lượng (khi đó chỉ mới 21 tuổi) nghe tôi nói, cũng sụt sùi theo, ông bảo:

– Thầy đừng phiền não, tôi sẽ giúp Thầy thỏa nguyện. Ngày mai khi hành lễ, tôi sẽ dìu và sắp đặt hết cho Thầy.

Tôi chắp tay xá cảm tạ ông.

Sáng 17, Tông Lượng mời Sư đệ Tông Tín, cùng các vị phát nguyện đốt tay khác… đến phụ dìu tôi lên đại điện hành lễ. Tất cả cùng tụng niệm, phát nguyện và sám hối. Tôi chí thành niệm danh hiệu Phật, tha thiết cầu siêu cho mẹ. Mới đầu đốt tay còn thấy đau đớn, nhưng dần dẩn tâm được an định, tôi có cảm giác rất nhẹ nhàng khinh an, thần trí trở nên sáng suốt. Rồi khi niệm đến câu “Nam mô Pháp giới tàng thân A Di Đà Phật”, toàn thân tôi chấn động, tất cả lỗ chân lông như dựng đứng, tôi tự bật dậy lễ Phật chẳng cần ai dìu. Lúc này, tôi không còn cảm thấy đau hay bệnh hoạn gì nữa, quá vui mừng, tôi bước tới cảm tạ từng vị trong đại chúng.

Khi trở về liêu, mọi người đều tấm tắc khen là hy hữu. Ngay hôm ấy tôi ra khỏi nhà dưỡng bệnh.

Hôm sau, tôi ngâm tay vào nước thuốc cả ngày, không bị chảy máu nữa. Được vài ngày thì da thịt liền lặn, sức khỏe khôi phục dần, tôi tiếp tục lễ bái và ở lại chùa A Dục Vương cho đến hết năm.

Điện thờ xá lợi nơi chùa A Dục Vương

Chùa thuộc địa phận Ninh Ba. Trước đây có tên là A Dục Vương, sau đổi thành Quảng Lợi. Theo truyện tích thì sau khi Phật diệt độ khoảng trăm năm, nơi miền Trung Ân có vị vua tên A Dục cai trị. Ông đã đem 84 ngàn viên xá-lợi của Phật cất vào bảo tháp, sai chư vị quỷ thần mang đi phân bố khắp nơi. Tại Trung Quốc có 19 chỗ lần lượt xuất hiện bảo tháp này chẳng hạn như chùa A Dục Vương ở Ngũ Đài. Tại Ngũ Đài, xá lợi được cất kỹ, giấu trong Đại bảo tháp, không dễ gì chiêm bái.

Đến đời Tấn Võ Đế, niên hiệu Thái Khang năm thứ ba (282), nhờ ngài Huệ Đạt ở chùa A Dục lễ bái thỉnh cầu, bảo tháp xá-lợi mới từ đất vọt lên. Ngài bèn lập chùa và cho xây tháp thờ xá-lợi. Cửa tháp luôn khóa kín. Ai muốn xem xá-lợi, trước phải cầu xin người giữ tháp, rồi vào chánh điện lễ Phật, quỳ gối ngoài thềm điện chờ. Những người đến chiêm bái này phải quì theo thứ tự, người giữ tháp mới mang bảo tháp xá-lợi ra, tháp cao hơn 45cm (l,4m Tàu) chu vi hơn 30cm (l m Tàu). Lòng tháp trông, trong có một cái chuông, giữa chuông có một cây kim, xá-lợi được đính trên đầu kim này. Người xem xá-lợi có cảm nhận chẳng đồng. Thường thì thấy xá-lợi lớn bằng hạt gạo hoặc ba phần tư hạt gạo, màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng khác nhau… tùy. Ai có phúc duyên nhiều nữa thì sẽ nhìn thấy hoa sen cùng tượng Phật…

Đến niên hiệu Vạn Lịch triều Minh, có Thượng thư Lục Quang Tổ cùng thân hữu đến chiêm bái. Mới đầu thấy xá-lợi chỉ bằng hạt đậu nhỏ, sau lớn hơn, kế đó to bằng trái táo, trái dưa, rồi lớn như bánh xe, ánh sáng chói lòa, tâm mát đếu thanh lương. Bấy giờ Điện thờ xá-lợi đã hư hoại. Thượng thư Lục mới cho xây lại, trùng hưng Điện thờ trang nghiêm cho đến giờ. Đức Phật đại từ đã lưu lại pháp thân chân thể này khiến cho chúng sinh đời sau có thêm tín tâm chân chánh vậy.

QUANG TỰ 24 MẬU TUÂT (1898) 59 TUỔI

Đầu xuân, tôi ở chùa A Dục Vương. Nhân chùa Thất Tháp (Ninh Ba) có đúc đại hồng chung, các sư Qui Y, Bổn Lai… thỉnh sư Mặc Am đến giảng Kinh Pháp Hoa và mời tôi giảng phụ. Tôi bèn đến đó giảng. Xong việc, tôi lên núi Đồng Quan, Nghi Hưng, cất am tranh ở đây đến hết năm.

NĂM QUANG TỰ 25 KỶ HƠI (1899) 60 TUỔI

Tôi cùng hai sư Cát Sâm, Bảo Lâm đến Đan Dương trùng tu Tiên Đài Quán, ở đây hết mùa hạ.

Tháng bảy tôi đến Cú Dung, Hòa thượng Pháp Nhẫn ở Xích Sơn giao am tranh cho tôi ngụ qua mùa Đông.

QUANG TỰ 26 (1900) CANH TÝ – 61 TUỔI

Tính ra tôi ở vùng Giang Triết này đã mười năm, dự định sẽ làm một chuyến viễn du thăm Ngũ Đài lần nữa rồi về Chung Nam ẩn tu. Thế là tôi rời Xích Sơn. Ban đầu tôi đến Trấn Giang, Dương Châu lễ núi Vân Đài. Vào Sơn Động chiêm bái Đông Nhạc, Thái Sơn, đến núi Lao Sơn viếng chùa Hải Ấn của Hám Sơn rồi đến Khúc Phụ lễ Lăng miếu Khổng Tử.

Sao ngồi trên đầu người ta?

Trên đường về miền Tây. Một đêm nọ, tôi ghé vào một cái miếu hoang cũ ngụ qua đêm. Miếu bốn bề trống lốc, chẳng có gì. Ngoài chiếc hòm đặt giữa nhà với nắp quan lật ngửa. Tôi liền lên nằm nghỉ trên nắp quan. Nửa khuya, nghe bên dưới rục rịch, trong hòm phát ra mấy tiếng động to… rồi một âm thanh vọng lên:

-Cho tôi ra ngoài!

– Là người hay ma?

– Người!

– Người thế nào?

– Ăn xin!

Tôi bật cười, tránh chỗ. Một cái mặt nhăn nhó thò lên, bộ dạng giống như quỉ, hỏi tôi là ai.

Tôi đáp: – Là Hòa thượng.

Hắn nổi sùng la:

-Sao ngồi trên đầu người ta?… rồi tỏ vẻ muốn hành hung.

Tôi bảo: – Lúc tôi ngồi trên nắp quan, anh động đậy nhúc nhích còn chẳng được, giờ còn đòi đánh ư?

Hắn nghe nói, nguôi giận, bước ra ngoài đi tiểu rồi chui vào quan tài ngủ tiếp.

Tờ mờ sáng, tôi đã lên đường. Lúc bấy giờ, đảng Nghĩa Hòa đang nổi loạn tại các huyện vùng Sơn Đông. Một hôm, tôi đang đi thì gặp một người lính ngoại quốc cầm súng chỉa vào tôi và hỏi:

– “Có sợ chết không?”.

Tôi đáp: “Nếu mạng tôi phải chết về tay ông thì cứ việc”…

Thấy tôi thần sắc chẳng động, y bảo: “Thôi được, cho ông đi!”…

Tôi đến Ngũ Đài lễ bái xong, định trở về Chung Nam, thấy cảnh loạn lạc xảy ra mỗi lúc một nhiều nên đành lui về Bắc Kinh. Tôi đến chùa Tây Vực lễ Thạch Tạng Kinh. Lên núi Đàm Thạch, thăm một vị tăng hành cước, rồi ghé chùa Giới Đài, lễ tháp Thiền sư Phi Bát.

Tôi tham gia đạo tràng niệm Phật ở núi Hồng Lô, viếng chùa Đại Chung, chiêm ngưỡng quả chuông đồng nặng 87.000 cân, cao 5m, quai chuông 2m33 , rộng 4m66 . Bên ngoài chuông có khắc một bộ Kinh Hoa Nghiêm, bên trong khắc một bộ Pháp Hoa, đường viền chuông là kinh Kim Cang. Quai chuông khắc bộ chú Lăng Nghiêm. Chuông này do vua Vĩnh Lạc đúc cầu siêu cho mẹ.

Xem xong, tôi trở về trú ngụ ở chùa Long Tuyền phía Nam thành.

Tháng 5, loạn Nghĩa Hòa ngày một tăng, họ lấy danh nghĩa “Phò Thanh diệt Dương” ủng hộ Hoàng thái hậu, giết chết thư ký của Sứ quán Nhật Bản cùng nhân viên Công sự nước Đức.

Ngày 17 tháng 5, vua hạ chiếu tuyên chiến với các nước, kinh thành hỗn loạn…

Tháng 6, Thiên Tân thất thủ.

Tháng 7, liên quân các nước vây hãm Bắc Kinh. Bấy giờ các Vương công, đại thần đều kéo đến ở chùa Long Tuyền và quen biết tôi, họ khuyên tôi nên theo đoàn xa giá về miền Tây lánh nạn.

Đi miệt mài suốt ngày đêm, muôn vàn gian khổ. Đến huyện Phụ Bình mới nghe tin sầm Xuân Tuyên đem quân cần Vương đến. Hoàng đế cùng Thái hậu rất mừng, xa giá được hộ vệ ra khỏi Trường Thành, tới Nhạn Môn Quan ở Sơn Tây. Tại đây có chùa Vân Môn, có vị Sư già thọ 124 tuổi. Vua ban lụa vàng và truyền lập Phường (biểu dương những người hiền trong làng).

Rồi đoàn đi về phía tây đến Bình Dương, vùng này mất mùa đói kém, nhân dân mang rau rừng, khoai núi đến dâng, vua cùng Thái hậu ăn, khen ngon nức nở.

Đến Tây An vua ở Vũ Viện, bấy giờ nạn đói hoành hành, có nơi còn ăn cả thây người chết, vua ra chỉ cấm ngặt và truyền mở quán cơm bố thí tại bốn cửa thành. Các thôn làng và thị trấn lớn, nhỏ gì cũng được bố thí như vậy.

Quan Tuần vũ sầm Xuân Tuyên mời tôi đến chùa Ngọa Long lập đàn Cầu Tiêu Tai. Xong đại lễ, Hòa thượng Đông Hà mời tôi ở lại chùa, tôi thấy đoàn xa giá ở Tây An ngày càng ồn ào phiền phức nên lẻn trốn đi.

Tên Hư Vân bắt đầu có từ đây

Tháng 10, tôi lên núi Chung Nam cất am tranh, kiếm được cái hang Sư Tử phía sau Ngũ Đài, cảnh trí nơi đây rất u tịch. Muốn cắt dứt ngoại duyên phiền toái, nên tôi đổi hiệu là Hư Vân, tên Hư Vân bắt đầu có từ đây. Núi thiếu nước nên tôi hứng nước mưa, tuyết để uống và tự trồng rau củ ăn. Bấy giờ sư Bổn Xương ở núi Phá Thach, sư Diệu Liên ở miếu Quan Đế, sư Đạo Minh ở động Ngũ Hoa, sư Diệu Viên ở Mao Bồng, sư Tu Viên, Thanh Sơn ở phía sau núi. Các vị đều là bậc Tôn đức, chúng tôi thường qua lại với nhau.

Tháng 8, Sư Phục Thành, Nguyệt Hà, Liễu Trần đến thăm, vừa gặp tôi thì nói:

– Mấy năm rồi vắng bặt tin tức, ai biết Thầy ngự trong đây?

Tôi cười đáp:

– Trong đây để đó, trong kia thì thế nào?

Họ hành lễ. Dùng bữa bằng rau rừng xong, tôi tiễn họ về núi Phá Thạch. Sư Nguyệt Hà mách:

– Lão Xích Sơn ở chùa Quy Nguyên, Hán Dương giảng Kinh Pháp Hoa. Hiện Ngài đang chán rộn ràng, muốn lên miền Bắc ở nên sai tôi lên núi Thuý Vi tìm chỗ trước… Sư Nguyệt Hà rủ tôi hãy đi với ông, nhưng tôi muốn tĩnh tu nên từ chối. Lúc tôi nhập thất xong thì các sư Hoá Thành, Dẫn Nguyệt, Phục Giới đi thăm núi Thúy Vi đã trở về. Nguyệt Hà khoe: – Vùng đất bọn tôi mới xem ưng ý lắm!

– Tôi khuyên:

– Đất ấy hướng Bắc phạm thế Bạch Hổ, Thái Bạch, phía sau chẳng có điểm tựa, không phải đất lành đâu!

Họ không nghe lời tôi nên sau này rước lấy kết quả không tốt.

Mùa đông đến, lão Thanh Sơn sai tôi đi chợ Trường An mua đồ. Mua xong thì trời đổ tuyết to. Tôi lò mò lên núi, đến chỗ am tranh mới, ngay đoạn đường cheo leo thì trợt chân té nhào rơi xuống hố tuyết. Tôi kêu lớn, những người lân cận chạy đến phụ kéo tôi lên. Tôi y phục ướt đẫm mà trời đang nhá nhem tối. Nghĩ đến cảnh ngày mai tuyết phủ đầy núi, sẽ khó tìm ra lối đi nên tôi mặc kệ đêm đầy tuyết, cứ bươn bã đi về. Đến chỗ sư Thanh Sơn, ông thấy bộ dạng tôi thảm hại, cười bảo là tôi chẳng được việc. Tôi mỉm cười cáo từ, về cốc ở đến hết năm.

QUANG TỰ 27 (1901) TÂN SỬU – 62 TUỔI

Suốt từ mùa xuân đến hạ tôi vẫn ở Mao Bồng, còn lão Xích Sơn đã lên núi Thúy Vi cất am ở, dẫn hơn 60 người theo, phân nửa ở chùa Hoàng Dụ, phân nửa ở am mới chùa Hưng Thiện.

Bấy giờ quân đội tỉnh Giang Tô, khai ruộng nước ở đất Bắc và giao hơn trăm mảnh đất gần sông Âp Bá cho Tăng chúng canh tác. Dân bản địa tại đầy muốn đem ruộng đổi lấy đất đó nhưng Tăng chúng Thúy Vi không chịu, thế là kiện tụng xảy ra, Tăng chúng kém lý nên thua kiện. Lão Pháp sư Xích Sơn buồn lắm, năm sau Ngài bỏ về Nam, đem hết đồ vật cho sư Thể An, Nguyệt Hà… còn đại chúng đều đi tứ tán. Mỗi lần nghĩ đến những trắc trở này, tôi thở dài…. Lần này Tăng chúng miền Nam đến đất Bắc chịu rất nhiều ảnh hưởng, từ núi sông, địa hình, cảnh khí, không gì là không liên can…

Khí trời cuối đông kết hợp với tuyết tụ ngàn năm, phả hơi lạnh thấu xương, tôi ngồi một mình trong thảo am, thân tâm rỗng rang trong lặng. Một hôm, tôi nhóm lửa nấu khoai, ngồi kiết già chờ khoai chín, ai ngờ nhập định luôn.

Năm này Ký Hòa ước Tân Sửu, bồi thường 450 triệu lượng bạc.

Tháng 10 liên quân các nước rút khỏi Kinh Sư.

Tháng mười một, Thái hậu cùng nhà vua trở về Bắc Kinh.

QUANG TỰ 28 NHÂM DẦN (1902) 63 TUỔI

Tôi nhập định không biết bao lâu… Đông tàn, Xuân sang. Qua năm mới, chư Tăng quanh đấy lấy làm lạ vì đã lâu không thấy tôi đến, họ rủ nhau tới am tôi chúc Tết. Nhìn ngoài chòi đầy dấu chân cọp mà không có dấu chân người, họ liền bước vào xem, thấy tôi đang nhập định nên họ đánh khánh thức định. Tôi mở mắt.

Họ hỏi: -Đã ăn uống gì chưa?

– Tôi đáp: “Chưa! Có khoai ở trong nồi đấy, chắc đã chín rồi.”

Nhìn lại thì khoai đã bị đóng băng cứng ngắc, meo tuyết phủ cả lớp dày. Phục Thành kinh ngạc nói: “Thầy nhập định đã hơn nửa tháng rồi đấy”… Thế là chúng tôi nhóm lửa, bỏ tuyết vào nồi luộc khoai, cùng dùng bữa, cả cười rồi chia tay.

Sư Phục Thành đi rồi, vài ngày sau Tăng tục xa gần tìm đến chiêm lễ. Chán trò thù tạc, tôi gom ít hành lý trốn đi, tìm đến chỗ xa xôi muôn dặm mà ở.

Tôi ngụ ở sơn cốc Thái Bạch mới được vài hôm thì sư Giới Trần tìm đến, rủ tôi đến tận nga My. Chúng tôi đi qua cửa khẩu Bảo Âp đến núi Tử Bá, viếng mộ Trương Lương. Đến huyện Chiêu Hóa, chiêm ngưỡng cây bách Trương Phi, rồi đến Thành Đô, nghỉ tạm một lát tại chùa, sau đó men theo đường Gia Định đến núi Nga My, lên Kim Đỉnh chiêm ngưỡng hào quang Phật, thấy giống như hào quang trên núi Kê Túc. Ban đêm, hiển hiện hàng vạn ngọn đèn sáng tương tợ Đèn Trí Huệ ở Ngũ Đài. Đến Điện Tích Ngọa, đảnh lễ Lão Hòa thượng Chân Ưng, Ngài đã hơn 70 tuổi, là bậc Đại thiện tri thức đứng đầu tông môn vùng núi này, Ngài vui vẻ rủ chúng tôi lưu lại vài hôm.

Vượt sông Kim Sa viếng núi Kê Túc

Xuông núi, chúng tôi đến chùa Đại Nga ở ao Tẩy Tượng, gặp Trưởng lão Bình, tới Điện Tỳ Lô huyện Nga My, đi qua thôn Ngân huyện Hiệp Giang đến bến sông Lưu Sa gặp con nước lớn, đợi từ sáng tới trưa mới có đò. Mọi người đều lên đò, tôi nhường Giới Trần lên trước rồi trao hành lý cho ông. Nhưng khi tôi vừa bước lên đò thì sợi dây buộc ghe bỗng đứt, làm tôi té nhào xuống sông, tay mặt vừa kịp bấu vào dây buộc thuyền. Gặp lúc nước chảy xiết, thuyền nhỏ mà người đông, chỉ cần hơi nghiêng một tí là đò bị chìm ngay. Vì vậy tôi không dám cử động mạnh, đành thả trôi theo dòng nước. Đến tối, đò mới cập bến, mọi người kéo được tôi lên thì y phục cùng hai chân tôi đều bị đá nhỏ cắt nát… Đã vậy, trời lạnh buốt mà còn đổ mưa, chúng tôi dầm mưa đi đến Sái Kinh Quan, nơi này các nhà trọ đều không cho Tăng ở, thấy bên đường có một cái am do một vị Tăng coi giữ, chúng tôi bèn tiến đến xin ngụ tạm, năn nỉ rất lâu mà ông ta vẫn khăng khăng không cho. Túng thế, chúng tôi đành phải ra ngoài nghỉ trên cái nền đất của một rạp hát nghèo. Khố nỗi, đất quá ẩm, mà y phục chúng tôi thì ướt mem, tôi bèn đưa tiền, nài nỉ ông tăng khó tính bán cho ít rơm. Ông ta lấy tiền xong, thảy cho chúng tôi ba bó rơm ướt sũng nước – đốt không cháy, nằm không xong – thôi thì đành chịu trận vậy. Tôi với sư Giới Trần, ngồi mãi cho đến trời sáng mới mua được mây trái chuối chát ăn đỡ lòng, phần tôi thêm đôi chân bị đá cắt nát chưa lành, ráng chịu đau mà bước.

Chúng tôi qua núi Hỏa Nhiên, đến phủ Ninh Viễn…vào địa phận tỉnh Vân Nam. Tới huyện Vĩnh Bắc, lễ Thánh tích Bồ-tát Quán Thế Âm, vượt sông Kim Sa viếng núi Kê Túc, đêm đến chúng tôi chỉ biết nghỉ lại ở dưới gốc cây, bỗng nghe trong thạch môn có tiếng mõ vang lên.1

Ngậm ngùi gạt lệ xuống núi

Sáng ra, chúng tôi lên Kim Đỉnh, đi dâng hương khắp nơi, tôi nghĩ thầm: “Chốn Đạo tràng của Phật, Tổ mà suy tàn đến thế này, Tăng quy tỉnh Điền lại tệ như thế kia? Con nguyện sẽ ở đây, chiêu đãi, tiếp đón, giúp những người đi triều lễ núi không còn bị cảnh bạc đãi…”.

Nhưng hoài bão của tôi khó thực hiện vì bị đám con cháu các chùa miếu vùng này quyết liệt cản ngăn, tôi chỉ biết ngậm ngùi gạt lệ xuống núi. Đến Côn Minh, gặp một Phật tử hộ pháp tên Sâm Khoan, ông ân cần mời tôi lưu lại chùa Phước Hưng. Tôi bế quan ở đây đến hết năm, sư Giới Trần hộ thất cho tôi.

QUANG TỰ 29 QUÍ MÃO (1903) 64 TUỔI

Tôi đang ở trong thất thì có vị tăng chùa Nghinh Tường mang một con gà trống nặng đến mấy cân tới phóng sinh. Tính nó rất dữ, ưa gây chiến, cả bầy gà đều bị nó hành hung, đá cho tơi tả mào, cánh… Tôi quy y truyền giới cho nó, dạy nó niệm Phật. Chẳng bao lâu, nó không còn hung hăng nữa, chỉ leo lên cây đứng một mình, không ăn sâu bọ. Đồ người ta không cho thì không ăn. Lâu ngày, hễ nghe tiếng chuông khánh là nó theo chúng lên Chánh điện, làm lễ xong thì trở về ở dưới cội cây. Tôi dạy niệm Phật, nó phát thinh: “Phật, Phật, Phật”. Được hai năm, một hôm nọ sau khóa lễ tối, nó đứng yên, ngẩng đầu, vỗ cánh ba lần, giống như cất tiếng niệm Phật rồi đứng yên mà chết. Trải qua mấy ngày thân xác không biến đổi, bỏ nó vào hộp chôn. Tôi làm bài minh:

Hiếu chiến gà ưa đá lung tung
Lông mào tơi tả, máu chảy ròng
Từ khi thọ giới cuồng tâm hết
Tuyệt dục, trường trai, chẳng hại trùng
Hai mắt kính thành chiêm ngưỡng Phật
Niệm Phật “ót ót”, dáng thung dung
Nhiễu quanh, vỗ cánh an nhiên mất
Chúng sinh và phật đâu chẳng đồng?

CHƯƠNG 6: HÀNH ĐẠO, ĐỘ SINH (HƯ VÂN NIÊN PHỔ)

01

Mùa xuân, chư vị tổ chức lễ cầu nguyện ở chùa Quy Hóa, Hòa thượng Khế Mẫn thỉnh tôi ra thất đến chùa giảng Kinh Viên Giác và Tứ Thập Nhị Chương, qui y cho hơn ba ngàn người.

Mùa thu, ngài Mộng Phật mời tôi đến chùa Cung Trúc, giảng Kinh Lăng Nghiêm, ở tại đây khắc bản Kinh Lăng Nghiêm cùng thơ Hàn Sơn. Bản khắc hiện vẫn còn ở chùa này.

Mọi người mời tôi truyền giới. Phật sự xong, quan phủ Đại Lý là Trương Tùng Lâm, Lý Phước Hưng cùng Tăng chúng đến rước tôi qua Đại Lý, ngụ ở chùa Tam Tháp Sùng Thánh, thỉnh tôi giảng Kinh Pháp Hoa, mấy ngàn người đến qui y.

QUANG TỰ 30 GIÁP THÌN (1904) 65 TUỔI

Đề đốc Lý Phước Hưng mời tôi lưu lại Sùng Thánh. Tôi nói:

-Tôi không muốn ở thành thị, trước đây từng phát nguyện sẽ đến cất am ở núi Kê Túc nhưng bị các vị nơi đó ngăn cấm. Nay các ông đã có lòng hộ pháp, nếu có thể thì xin cấp cho tôi một mảnh đất ở Kê Túc để tôi cất am chiêu đãi khách thập phương, hầu cứu vãn tình thế suy đồi của Tăng chúng Vân Nam và hoàn thành tâm nguyên phục hưng đạo tràng ngài Ca-diếp. Tôi chỉ mong được như thế.

Các quan tán đồng và ra lệnh cho Tri huyện, Biện lý huyện Tân Xuyên lo liệu… kết quả, họ tìm được một tu viện hư hoại trong núi là Am Bát Vu. Tôi liền đến đó ở, chỗ mới này tuy không có phòng ốc, ăn chẳng chứa đồ cách đêm, nhưng tứ chúng mười phương đến đây đều được tôi dùng lễ tiếp đón tử tế.

Am Bát Vu

Am Bát Vu bị bỏ hoang kể từ năm Gia Khánh. Do thấy bên phải cổng chính có một tảng đá to nằm chắn (tạo thành thế Bạch Hổ không tốt), nên tôi quyết định dời đá đi và sẽ cho đào Ao Phóng Sinh nơi đây. Khi đào đất xem xét, thấy tảng đá không ăn sâu xuống, chỉ cao khoảng 3m13, rộng 2m53, trên mặt bằng phẳng, có thể ngồi kiết-già trên đó được, nên tôi quyết định dời nó qua phía tả, cách xa chỗ cũ hơn 90m.1

Nhân công tụ họp cả trăm người, ráng sức, khiêng, nạy, xeo… suốt ba ngày mà tảng đá không nhúc nhích, họ bỏ đi thẳng. Tôi bèn cầu chư thần Già-lam gia hộ, tụng chú Phật, rồi gọi hơn mười vị Tăng đến phụ tôi khiêng tảng đá qua phía tả an toàn. Việc này làm chấn động đám người bu xem, ai cũng kinh hãi vì sức thần trợ giúp.

Nhân việc này, họ ghi vào tảng đá là “Vân di thạch”. Các nhân sĩ đại phu làm thơ vịnh rất nhiều, tôi cũng ghi bài thơ:

Đá nằm sừng sửng đến lạ lùng
Dung nhan xưa cổ nhuộm rêu phong
Trời làm chưa trọn chờ ta đấy
Xem mây biến hóa ước theo rồng
Dời núi cả cười Ngu công vụng
Nghe pháp từng nghi hổ gõ thùng
Từ đây tám gió xô chẳng động
Băng tan, bầu bạn với ngàn thông
Bát Vu ủng hộ Phạm Vương cung
Ca Diếp đâu đà lưu hành tung
Học đạo quản chi ngàn vạn lý
Lên núi vượt qua cổ ngàn trùng
Bao năm linh thạch rêu mờ phủ
Dòng trăng cá quẫy giỡn bóng tùng
Nhìn xuống cửu Châu mờ khói bụi
Gió trời thoảng nhẹ tiếng chuông ngân

Vì trùng tu chùa viện, tiếp đãi khách thập phương, phát triển công việc, nên cần phải gấp rút hóa duyên, tôi giao sư Giới Trần lo liệu việc trong chùa, còn mình thì đi Đằng Xung. Từ Hạ Quan qua Vĩnh Xương đến Hòa Mộc Thọ…

Trì Địa Bồ-tát

Nghe kể trước đây vùng này có con đường đầy ổ gà lồi lõm dài tới mấy trăm dặm, rất khó đi, quan dân chưa từng tu sửa. Có một nhà Sư ở tỉnh khác đến, thấy vậy phát tâm tu bổ lại con đường, tự mình chịu nhọc ra sức làm mà không hề quyên mộ chi. Tùy khách qua đường hiến tặng thức ăn, vị Sư này sửa đường ròng rã ngót mấy mươi năm nay, miệt mài chăm chỉ. Con đường này nhờ có Sư ra công tu bồ nên mười phần đi được hết chín. Dân địa phương mang ân lắm, đòi tu bổ lại ngôi chùa Khổng Tước Minh Vương cho Sư ở, nhưng Sư không chịu, chỉ nguyện sửa đường thôi”.

Tôi nghe kể, rất hiếu kỳ, đi đến gần tôi thì gặp một vị Sư tay cầm cuốc, xẻng đang trên đường về. Vừa thấy ông, tôi tiến lại xá chào, hỏi thăm, nhưng ông chỉ nhìn mà không đáp. Tôi chẳng quan tâm, lẻo đẽo theo tới tận chỗ ông cư ngụ.

Ông thả dụng cụ xuống, leo lên bồ đoàn ngồi, tôi tham lễ, ông cũng chẳng thèm dòm tới, không nói không rằng, tôi bèn ngồi đối diện với ông.

Hôm sau, ông vo gạo, tôi nhen lửa. Cơm chín, ông không mời, tôi cũng cầm bát tự đơm đầy cho mình. Ăn xong, ông vác cuốc, tôi gánh sọt, cùng làm việc, khiêng đá, xúc đất, ban đường… Cùng làm cùng nghỉ… Như thế được hơn mười hôm, mà vẫn chưa chuyện trò, hai bên đều im lặng.

Chớ nhận cầu vồng là ráng chiều

Một tối nọ, trăng chiếu sáng như ban ngày, tôi ngồi kiết-già trên tảng đá lớn ngoài chùa. Đêm chưa khuya lắm, ông đi nhè nhẹ đến sau lưng tôi, hét to:

-Ở đây làm gì?

Tôi hé mắt đáp:

-Xem trăng!

-Trăng ở đâu?

Tôi đáp:

-Chiếu sáng vằng vặc.

Ông bảo:

Đồ đa ngư mục Chơn nan biện
Hưu nhận hổng nghê thị thái hà
(Rất nhiều mắt cá khó phân biệt
Chớ nhận cầu vồng là ráng chiều)

Tôi đáp:

Quang hàm vạn tượng vô kim cổ
Bất thuộc âm dương tuyệt chướng giá.
(Sáng dung vạn tượng vô kim cổ
Chẳng thuộc âm dương, bặt ngăn che)

Ông nắm tay tôi, cười to nói:

-Khuya rồi, mời Thầy về nghỉ.

Sáng ra, ông hoan hỷ bắt chuyện, xưng mình tên Thiền Tu, người Tương Đàm, xuất gia từ bé. Năm 24 tuổi, nơi Thiền đường Kim Sơn, được chỗ thôi dứt2. Sau đó ông đi viếng cảnh núi, đến Tây Tạng, qua Miến Điện rồi về nước. Thấy con đường này khúc khuỷu, nghĩ tội nghiệp người, ngựa đi vất vả, vốn mến mộ hạnh ngài Trì Địa Bồ-tát, nên ông đến đây, nguyện ra sức tu sửa… đến nay đã mấy mươi năm. Giờ ông đã 83 tuổi, chưa gặp được tri kỷ. Nay hữu duyên, may mắn hạnh ngộ một người như tôi nên giải bày hết tâm tư…

Tôi cũng kể ông nghe chuyện của mình. Hôm sau, ăn sáng xong, tôi cáo từ. Cả hai đồng cười lớn và chia tay.

Kính thỉnh Hòa thượng đến tụng kỉnh

Tôi đến Đằng Xung quyên góp, đang ở Hội Quán Hồ Nam, chưa kịp trình sổ ra đã thấy có mấy người mặc đồ tang đến, dập đầu làm lễ, thưa:

-Kính thỉnh Hòa thượng đễn tụng kinh.

Tôi đáp:

-Tôi không phải thầy đám.

Các hiếu tử thưa:

-Xin Hòa thượng hãy vì chúng con mà tụng kinh giùm.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

-Ở đây không có Hòa thượng nào sao?…

Vị chủ tiệm giải thích:

-Đại sư nên đi tụng Kinh, sự việc thật trùng hợp. Nhóm người này là con cháu của Ngô Thái Sử. Thái Sử bình sinh tu trì rất cẩn mật. Mấy mươi năm nay, ai cũng ca ngợi ông là bậc thiện nhân. Ông thọ hơn tám mươi, con cháu có tới mấy chục người, đậu Hiếu Liêm mấy vị, Tú tài còn nhiều hơn. Khi sắp mất, ông tự xưng là Hòa thượng, dặn con cháu dùng Tăng phục mai táng, cấm không cho khóc lóc, không được sát sinh hay rước thầy đám đến tụng kinh. Ông còn dự báo là sẽ có một vị cao tăng đến làm lễ siêu độ cho mình. Nói xong, ông ngồi xếp bằng mà mất. Trải qua mấy ngày, mặt mũi vẫn tươi như lúc còn sống. Hôm nay, Đại sư đến đây quả thật là có duyên.

Tôi nghe vậy bèn nhận lời., đến nhà họ tụng kinh, làm lễ thí thực suốt bảy ngày, dân chúng trong làng cùng các vị quan nhân thân sĩ đều đến tỏ lòng hoan hỉ, mừng rỡ tán thán, xin qui y hơn nghìn người. Các quan về hưu cũng nài thỉnh, khẩn khoản năn nỉ xin tôi hãy trụ lại Đằng Xung, tôi giải thích:

-Tôi vì phát nguyện trùng hưng đạo tràng núi Kê Túc nên mới đến đây quyên góp, do vậy chẳng thể ở lại đây được.

Họ hiểu ra, vui vẻ đua nhau hỷ cúng.

Tôi trở về núi, có đủ tiền để kiến tạo phòng ốc, bèn soạn lập Thanh Qui, tổ chức tọa Thiền giảng Kinh, chấn chỉnh Luật nghi, mở Đàn giới… Năm ấy bốn chúng đến cầu giới hơn bảy trăm người. Các chùa bản địa ở đây cũng dần thay đổi theo, chịu mặc đúng pháp phục, ăn chay và cho tu sĩ đến nghỉ lại.

Năm này Nhật-Nga khai chiến, Trung Quốc tuyên bố đứng ngoài cuộc.

Ngài Hư Vân kể:

  1. Ngô Thái Sử

Nguyên trước đây chùa Vạn Phật (ngoài cửa đông Đằng Xung) có một lão Tăng cả đời hành đạo chí thành, chuyên niệm Phật và tụng kinh Kim Cang. Lúc đó Ngô công, (ông nội của quan Ngô Thái Sử) thường cúng dường vị Tăng này. Khi con dâu Ngô công sắp sinh, cụ bỗng thấy lão Tăng nọ hiện đến, đi thẳng vào phòng mình. Sau đó nàng dâu liền sinh ra đứa con trai (là Ngô Thái Sử hiện thời) Ngô công lấy làm lạ bèn cho kiểm tra thử, mới hay ở bên chùa Vạn Phật, lão Tăng kia đã viên tịch.

  1. Thái thú Trần Lan Khanh

Thái Thú Trần Lan Khanh quê ở Chiết Giang, Thiệu Hưng, sinh trưởng tại Côn Minh, quy y với Hòa thượng Nham Lâu. Bình sinh ông dốc lòng niệm Phật, thường trì kinh Kim Cang. Lúc trẻ đi thi, vừa đặt chân đến Hàng Châu thì có cảm giác nơi đây là cố hương của mình, rồi ông sực nhớ, kiếp trước mình chính là vị Tăng sĩ tu tại chùa Tây Hồ. Ông thường kể chuyện này cho bạn bè nghe, tả vanh vách về ngôi chùa, về cách bài trí trong phòng cho đến từng ngọn cây cọng cỏ, hoa lá mọc trong vườn chùa… Mọi người không tin, cho là hoang đường, họ tìm đến tận chùa Tây Hồ để kiểm chứng thì thấy tất cả đúng y như lời ông kể. Ông còn nói vợ mình hiện nay kiếp trước là nữ đàn việt, làm chủ tiệm hàng mõ cạnh chùa, từng cúng dường ông một chiếc Cà-sa, do có chút cảm tình mến mộ mà đời này kết thành duyên nợ… Người nghe đều cho là lạ kỳ, càng tăng thêm tín tâm. Cuộc sống Thái thú rất nhiều phúc báo, con cháu đông. Hiện đời tuy ông tin Phật, chịu niệm Phật mà không có ý khoác áo nâu sòng. Năm Quang Tự 33, tôi đến chùa Phúc Hưng ở Côn Minh, thường cùng ông trò chuyện, có nhắc nhở nhiều lần, nhưng ông không tỉnh. Trong kinh nói: “Phú quí học đạo nan”, nghĩ thật đúng và đáng tiếc lắm vậy.

  1. Tăng Diệu Trạm

Tăng Diệu Trạm ở chùa Nhiên Đăng, Côn Minh, tu pháp niệm Phật và thuộc lòng hết kinh Hoa Nghiêm. Thầy sống rất giản dị, ngoài chiếc áo nạp, không có vật dư. Dốc lòng hoằng dương Tịnh độ, đạo phong quảng bá khắp cùng. Tổng đốc Sầm Dục Anh, Vương Văn Thiều rất kính tin, thường thỉnh đến dinh quan cúng dường, sau đó Vương Văn Thiều được chuyển vào kinh làm quan Đại Học Sĩ. Một hôm, Vương đang ngồi dự tiệc trong nhà, bỗng thấy Trạm đến. Lát sau thì nghe người nhà báo tin tỳ thiếp đã sinh con rồi. Vương liền điện đến Côn Minh hỏi thăm thì hay tin thầy Diệu Trạm vừa mới nhập diệt.

  1. Đề Đốc Đường Minh Canh

Đường Minh Canh thường kể tôi nghe kiếp trước ông là một vị Tăng tên Chiêu Thông Phủ ở miếu Quan Đế. Chuyên tu khổ hạnh, siêng niệm Phật trì kinh. Tổ tiên ông xưa là Phật tử thuần thành, một lòng kính tin Tam bảo, rất hay cúng dường chư Tăng. Khi Minh Canh sinh ra, Trụ trì chùa có đến thăm, cũng thường khuyên Minh Canh xuất gia nhưng ông không chịu.

Ngài Hư Vân nhận xét:

Từ Phật giáo truyền sang Trung Hoa, các tông phái rất thịnh. Tu theo Phật pháp là để liễu sinh tử. Ngài Vĩnh Gia nói: “Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không, vị liễu hoàn tu thường túc trái”. (Liễu rồi nghiệp chướng vốn là không, chưa liễu hoàn thân đền nợ trước). Liễu hay chưa liễu, hành, giả phải để tâm suy xét, dẫu có khác đường đi song đích đến vốn đồng, giống như trăm sông đều đổ về biển cả. Những vị Tăng kể trên đây đều có công phu hành trì chơn chánh, song tất cả đều sinh làm con nhà đàn việt (là đích thân tôi chứng kiến hay nghe kể), âu cũng là ngã rẽ tạm thời. Nhưng nhân đây xin nhắc các vị tu hành: Phải luôn tự cảnh giác, sách tấn mình.

QUANG TỰ 31 (1905) Ất TỴ – 66 TUỔI

Mùa xuân, Hòa thượng Bảo Lâm chùa Thạch Chung mời tôi đến truyền giới. Giới tử có hơn 800 người. Phật sự xong, sư Giới Trần bế quan tại Am Bát Vu, còn tôi đi Nam Dương hoằng hóa.

Vị trụ trì kỳ lạ ở Miến Điện

Tôi đến chùa Thái Bình miền Nam Miến Điện, giảng xong Kinh Di Đà thì số người quy y lên khoảng vài trăm. Công việc hoàn tất, tôi vượt núi Dã Nhơn, đến Ngõa Thành, Tân Nhai. Do bị nhiễm khí độc ở núi Dã Nhơn nên đến đây thì phát bệnh nặng, phải nghỉ tạm trong cái chòi ven đường, ngày đêm trời nóng như thiêu. Tôi ráng đi đến chùa Quan Âm ở Liễu Động, gặp vị Trụ trì người Trung Quốc tên Định Như. Mới đầu, tôi xá chào, ông không thèm ngó tới, tôi bèn lên chánh điện tĩnh tọa. Chập tối, tới khoá lễ tụng kinh, ông lên điện khai chuông, tôi phụ đánh trống, khi tụng xong bài sám hối. Ông xướng “Giết, giết, giết!” và lễ ba lạy.

Sáng mai, lên điện tụng xong, ông cũng lễ ba lạy và làm y như vậy, tôi lấy làm lạ nên không bỏ đi. Ngày ba bữa, trong thức ăn, ông đều dùng hành, tỏi, sữa bò và các thức tạp. Tôi không ăn được, nhưng không nói gì, đành uống nước. Ông thấy vậy, sai người nấu cháo không bỏ hành, tỏi… tôi mới ăn được. Đến ngày thứ bảy, ông mời tôi uống trà. Tôi hỏi ông:

– Vì sao phải hô “Giết”… rồi lạy như thế?

– Ông đáp: – “Giết quỷ!”- Và kể tôi nghe quê ông ở Bảo Khánh, cha làm quan Võ, mất tại Vân Nam. Ông xuất gia tu ở chùa Phổ Đà, học vẽ với Hòa thượng Trúc Thiền. Hơn mười năm trước, ông từ Hương Cảng đến Tinh Châu. Lúc lên thuyền bị một người Âu ngược đãi thậm tệ nên từ đấy ôm hận không nguôi. Ở đây, tranh ông vẽ khéo, được nhiều người ưa chuộng nên kinh tế khấm khá.

Kể xong, ông bảo:

– Suốt mười năm nay, tôi thấy các khách Tăng đến đây, đa số toàn có tính khí kỳ ôn, chẳng ai có được đạo hạnh viên dung vô ngại như thầy. Bởi thấy thầy đàng hoàng, tôi kính quý lắm nên mới giải bày tâm sự…

Tôi khuyên ông “Oán thân bình đẳng”, nhưng ông có vẻ chưa nguôi ngoai.

Bệnh tôi thuyên giảm dần rồi bình phục. Tôi cáo từ, ông kiên quyết giữ lại, tôi giải thích mình còn trọng trách phải đi hóa duyên, ông mới chịu để tôi đi. Ông cúng dường tiền lộ phí, lo lương thực và mua vé xe cho tôi đến Ngưỡng Quang, sốt sắng đánh điện báo tin cho cư sĩ Cao Vạn Bang đến đón tôi rồi trân trọng từ biệt.

Tôi đến Ngưỡng Quang, gia đình Cao cư sĩ cùng Giám viện Tính Nguyên chùa Long Hoa ra đón. Gia đình họ Cao rất quí tôi, họ nói:

-Chúng con nghe Hòa thượng Diệu Lão nhắc Thầy mãi, mấy chục năm nay bặt tin, giờ Thầy đến hẳn Ngài vui lắm. Vừa rồi chúng con nhận được tin Hòa thượng Diệu Lão đang định trở về Đường Sơn để tu sửa Ninh Đức, Quy Sơn lại.

Hôm sau, tôi đi viếng tháp Đại Kim, tham quan các thắng cảnh xong thì vội vã cáo từ vì lo Hòa thượng đang gấp về nước. Cao cư sĩ tiễn tôi lên thuyền và đánh điện cho chùa Cực Lạc (đảo Tân Tức) hay để lo tiếp đón.

Bị đưa tới một vùng núi xa tít

Thuyền cập bến, do trên thuyền có người bệnh dịch chết, nên phải treo cờ cấm, tất cả hành khách đều bị đưa tới một vùng núi xa tít để xét nghiệm. Hơn ngàn người bị đưa lên núi, không có nhà trú ngụ nên phải ở ngoài trời, chịu cảnh phơi mình ngoài nắng mưa. Hằng ngày mỗi người được phát một chén gạo và hai củ cải, tự nấu nướng lấy. Bác sĩ đến khám ngày hai lần. Được một tuần thì số người được cho về hơn phân nửa, đến ngày thứ mười thì tất cả đều được về hết, chỉ còn lại mình tôi. Điều này khiến tôi càng sốt ruột, mà càng nôn nóng, bệnh càng nặng thêm, toàn thân đau đớn, tôi bỏ ăn dần.

Đến ngày thứ mười tám, y sĩ đến thăm, khiêng tôi sang một ngôi biệt thất vắng vẻ không người, tôi mừng lắm. Có một ông già đi tuần tra đến hỏi thăm, biết tôi là người Tuyền Châu, ông thở dài nói:

-Chỗ này là dành cho bệnh nhân sắp chết ở, họ đem Thầy vô đây, nghĩa là Thầy chỉ còn nước nằm chờ họ mổ xác khám nghiệm thôi!

Tôi giải thích cho ông hiểu là tôi có nhiệm vụ phải đi đến chùa Cực Lạc. Ông nhìn tôi thương hại, bảo:

-Thôi, để tôi mang thuốc đến cho Thầy dùng…

Rồi ông trao cho tôi chén trà Thần Khúc. Tôi uống cạn, hai ngày sau thấy trong người có vẻ khỏe hơn. Ông già dặn:

-Khi bác sĩ đến, hễ nghe tiếng tôi tằng hắng ở ngoài, thì Thầy phải lo mà ngồi dậy liền nghe, ráng phấn chấn tỏ vẻ cho tươi tỉnh đó! Nếu họ đưa thuốc thì tuyệt đôi không được uống!…

Ôi trời ơi! Nguy rồi…

Y sĩ đến, mọi việc diễn tiến như lời ông lão dặn, kẹt một điều là khi họ lấy thuốc, rót nước, ép tôi uống quyết liệt đến nỗi tôi không thể không tuân, bất đắc dĩ phải nốc cạn. Y sĩ đi rồi, ông lão bước vào hỏi thăm. Nghe tôi kể đã uống hết thuốc, ông hoảng kinh kêu lên:

-Ôi trời ơi! Nguy rồi… Ngày mai nếu như Thầy còn sống thì tôi sẽ cho Thầy chút thuốc để Thầy uống cầu may, giờ chỉ còn biết trông cậy vào Phật Tổ gia ân cứu độ cho Thầy mà thôi!

Sáng hôm sau, ông lão đến. Tôi ngồi trên nền đất, mắt mở trao tráo mà không thấy gì, ông đỡ tôi dậy, thấy máu tuôn đầy đất. Ông đưa thuốc cho tôi uống, gấp rút thay đổi y phục, lau sạch máu trên nền nhà và nói:

-Như người ta mà uống thuốc hôm qua, thì không chờ đến tắt hơi đã bị mổ bụng rồi, còn Thầy tới giờ vẫn chưa tiêu mạng… Đúng là Phật, Tổ linh thiệt…

Rồi ông dặn tiếp:

-Chừng 9 giờ bác sĩ đến, hễ nghe tôi tằng hắng thì Thầy phải ráng giữ cho tươi tỉnh nghen!

Bác sĩ đến, thấy tôi, họ chỉ trỏ, cười cười rồi bỏ đi.

Đợi ông già vô, tôi hỏi thăm, ông đáp:

-Họ cười vì Thầy chẳng chết đó!…

Tôi sực nhớ lúc đưa tiễn, Cao cư sĩ có tặng cho ít tiền, tôi lấy bốn mươi đồng trao cho ông già, nói:

Xin biếu bác hai mươi đồng, đáp tạ lòng chăm sóc. Phần còn lại bác làm ơn tặng các y sĩ giùm, miễn sao họ chịu thả tôi đi…

Ông già bảo:

-Tôi không lấy tiền của Thầy đâu! Hôm nay có y sĩ người Âu đến khám, không lo được. Ngày mai có y sĩ người Cát Lãnh, tôi có thể thuyết phục họ.

Chiều tối, ông lão đến bảo:

-Tôi đã chi hai mươi bốn đồng, dàn xếp với họ xong xuôi. Sáng mai Thầy lên đường được rồi!

Tôi nghe nói, an lòng, trịnh trọng cảm ơn ông lão.

Sáng hôm sau, y sĩ đến. Xem bệnh xong thì gọi thuyền chở tôi qua biển. Ông già dìu tôi lên thuyền.

Vì sao mà ra nông nỗi như vầy?

Tôi thuê xe hơi đi đến Cung Quảng Phước, các vị ở đấy thấy tôi hình dung quái dị nên chẳng thèm hỏi han, bỏ mặc tôi ngồi suốt hai giờ, tôi không nén được bao cảm xúc ngỗn ngang, buồn vui lẫn lộn. Vui là mình vừa thoát chết, buồn vì thấy thầy Tri khách không tròn nhiệm vụ. Cuối cùng, cũng có một vị Sư già đến, ra là Thượng tọa Giác Không, tôi xưng tên, đảnh lễ, lễ xong thì hết ngóc dậy nổi. Sư Giác Không đỡ tôi dậy, ngạc nhiên hỏi:

-Cao cư sĩ đánh điện báo tin đã hơn 20 ngày rồi mà không thấy ông tới. Hòa thượng cùng đại chúng thảy đều sốt ruột ngóng trông. Vì sao mà ra nông nỗi như vầy?

Bấy giờ, già trẻ mới xúm lại chật nhà, trăm thuyền đổ về một bến, tíu tít hỏi thăm… rộn ràng như Tết. Chẳng bao lâu Hòa thượng Diệu Lão tới, Ngài bảo:

-Ngày nào tôi cũng ngóng tin và thầm lo là ông bị tai nạn gì đó… tôi đang tính về Quy Sơn thì nhận được tin ông đến nên đành hoãn lại chờ. Vì sao mà lâu thế?…

Tôi thưa:

-Con thật có lỗi!…

Rồi tôi thuật lại mọi việc. Hòa thượng và đại chúng nghe kể, vừa sợ vừa mừng, đồng chắp tay niệm Phật rồi cùng về chùa Cực Lạc.

Đừng ngồi lâu quá mà sinh bệnh

Hòa thượng nhắc tôi uống thuốc. Tôi thưa:

-Con về được đến nhà, vọng niệm hết sạch, nghỉ ngơi vài ngày thì khoẻ lại ngay thôi.

Sau đó Hòa thượng thấy tôi mỗi lần tĩnh tọa đều ngồi tới mấy ngày, liền khuyên:

-Khí hậu Nam Dương nóng, không giống ở nước mình, ông đừng ngồi lâu quá mà sinh bệnh.

Tôi thưa:

-Con không biết điều này.

Ngài dạy tiếp:

-Ông hãy ở đây giảng một bộ Pháp Hoa gieo duyên với chúng sinh, còn ta phải trở về nước. Giảng Kinh xong, ông đừng về Vân Nam vội, mà hãy ghé Cổ Sơn trước nhé, ta có việc cần nhờ ông.

Tiễn Hòa thượng lên thuyền xong, tôi bắt đầu giảng kinh, quy y cho mấy trăm người. Chư Phật tử ở Mã Lai mời tôi đến Đình Thanh Vân giảng Kinh Dược Sư. Lúc tôi trở về Cát Long Pha (Kualumpur) thì các cư sĩ Diệp Phật Hữu, Hoàng Vân Phàm v.v… mời tôi đến chùa Linh Sơn giảng Kinh Lăng Già. Mỗi khi các khóa giảng kết thúc, số người đến xin quy y có hơn vạn.

Mùa Đông, Tăng chúng tỉnh Điền đánh điện đến báo là chính phủ hiện đang trưng thu tài sản các chùa. Sư Ký Thiền (Bát Chỉ đầu đà) mời tôi về cùng bàn việc cứu vãn tình thế. Nhưng cận Tết rồi, tôi đành ở lại Cát Long Pha cho hết năm.

QUANG TỰ 32 BÍNH NGỌ (1906) - 67 TUỔI

Qua xuân, tôi trở về nước. Thuyền đi ngang Đài Loan, tôi ghé vào tham quan chùa Linh Tuyền. Sau đó đến Nhật Bản chiêm bái các thắng cảnh già lam nổi tiếng. Lúc này hai nước Trung-Nhật đang có hiềm khích nên người Nhật rất để ý đến các tu sĩ Trung Quốc và cấm tiệt, không cho tăng Nhật sang Trung Hoa. Tôi rất muốn liên kết Phật giáo đồ Trung-Nhật, nhưng thấy chính sự quá căng nên chưa thể tiến hành.

Đến Thượng Hải dự hội nghị

Tháng ba tôi về nước. Đến Thượng Hải dự hội nghị cùng sư Ký Thiền và các Đại biểu Phật giáo, rồi cùng lên kinh dâng Thỉnh nguyện thư.

Đến kinh đô, chúng tôi tá túc tại chùa Hiền Lương, gặp các Sư: Pháp An, Đạo Hưng… nghênh đón và chiêu đãi. Túc Thân Vương Thiện Kỳ mời tôi thuyết giới cho Thái Phúc Tân nghe. Hồi năm Canh Tý tôi có theo xe vua nên quen biết khá nhiều vương công đại thần, họ đến, niềm nở hỏi thăm, cùng đóng góp ý kiến và giúp tôi soạn thảo Thỉnh nguyện thư dâng vua. Nhờ các vị ấy nhiệt tình hộ pháp, yểm trợ hết lòng nên mọi việc suôn sẻ. Triều đình ra chỉ dụ:

“Quang Tự thứ 32, ngày… tháng…

Thông báo:

Trước đây, khi ban chỉ dụ, triều đình không nêu rõ danh mục nên mới phát sinh tệ nạn quấy nhiễu dân lành. Gần đây, nghe kể rằng tại học đường, công xưởng ở các tỉnh… đã xảy ra những việc làm sai trái, thậm chí gây tổn hại đến cả người nước ngoài, như thế hoàn toàn không đúng với tôn chỉ triều đình đã định.

Nay, lệnh cho các quan Tuần Vũ, phải thông báo lại cho các quan địa phương biết là:

-Đối với các tự viện, chùa, am… dù lớn hay nhỏ, nghĩa là từ đất đai cho đến tài sản, hễ đã thuộc chùa và các tu sĩ… thì chính quyền địa phương bắt buộc phải quan tâm bảo vệ, không được phép xâm phạm hay gây tổn hại. Tuyệt đối không cho phép bọn sâu dân mọt nước lộng hành, cấm ngặt việc tịch thu tài sản chùa.

Nay ban dụ này để làm sáng tỏ đường lối ngay thẳng liêm chính của triều đình”.

Sau khi chiếu chỉ được ban hành, phong trào xâm phạm tài sản chùa chiền ở các tỉnh được dập tắt.

Xin thỉnh bộ Đại Tạng Kinh

Tôi ở lại kinh đô, đàm đạo với các vị chính quyền nhiệt tình hộ pháp này. Cùng bàn chuyện triều Thanh từ khai quốc đến giờ. Tôi kể họ nghe Vân Nam chưa có được bộ Đại Tạng Kinh (Long Tạng) và ngỏ ý muốn xin phép đi thỉnh về cho pháp ân Phật được lưu bố khắp gần xa. Việc này được Túc Thân Vương nhiệt liệt tán thưởng. Ông đích thân khởi xướng, các quan Đại thần Tổng Quản Phủ Nội Vụ cũng hết lòng ủng hộ, đồng giúp tôi dâng sớ lên vua:

“Tăng sĩ Hư Vân (Trụ trì chùa Nghinh Tường) Am Bát Vu núi Kê Túc, huyện Tân Xuyên, phủ Đại Lý, tỉnh Vân Nam, xin đệ đơn tấu trình:

Chùa Nghinh Tường vốn là thắng hội của Tôn giả Ca Diếp, là ngôi sơn tự, một đạo tràng cổ thuộc hàng danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nhưng lại không có bộ Đại Tạng Kinh. Rất mong được ân trên cho phép tôi đi thỉnh bộ Đại Tạng này đề hưng long Phật Pháp và cũng để cho chư Phật tử khát pháp được thỏa lòng luyến mộ, có đủ duyên lành thấm nhuần pháp ân, đời đời được thờ phụng cúng dường…

(Đơn thỉnh cầu này đã được Túc Thượng Thư thuộc Bộ Dân Chính, Trụ trì Trừng Hải chùa Bá Lâm, Trụ trì Đạo Hưng chùa Long Hưng… đồng cam đoan đã xem xét kỹ lưỡng, cẩn thận), xin trân trọng dâng lên, rất mong được chấp thuận…

Nếu được phê chuẩn, chúng thần sẽ truyền cho Nha môn và các Ty Tăng Lục biết để tiến hành.

Kính trình và xin thỉnh Thánh chỉ.

Năm Quang Tự 32 ngày mùng 6 tháng 6. Nhà vua đã dùng bút son, phê vào: “Chuẩn tấu như thỉnh cầu, truyền tất cả tuân chỉ”.

Ngày 20 tháng 7. Vua ban chỉ dụ:

“Chùa Nghinh Tường Am Bát Vu núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam, nay được vua sắc phong tên:” Hộ Quốc Chúc Thánh Thiền Tự”, cho phép thỉnh nguyên bộ Long Tạng).

Trẫm ban tặng Đại sư Hư Vân Tử Y, Bát, Ngọc Ấn, Tích trượng. Và sắc phong cho danh hiệu “Phật Từ Hồng Pháp Đại Sư”, để Đại sư phụng chí về núi truyền giới, giúp nước an dân.

Lịnh cho Quan Đại thần Phủ Nội Vụ thông báo cho trụ trì Hư Vân hay, tiếp nhận chỉ, về núi chấn chỉnh sơn môn mãi mãi, tùy nghi giáo hóa… Truyền nhân dân cùng quan lại địa phương phải hết lòng cung kính tuân lệnh, lưu tâm giúp đỡ, bảo vệ, không được coi thường”…

Phải về Cổ Sơn gấp

Việc vừa xong thì ngày 20 tôi nhận được thư Hòa thượng Diệu Lão từ cổ Sơn gởi tới, dạy rằng:

“Khi bắt đầu rước Đại Tạng Kinh, hãy đến Hạ Môn trước, sau đó sẽ vận chuyển Kinh từ Nam Dương về Vân Nam. Tạm thời ông hãy để Kinh ở Đất Hạ và nhớ phải về Cổ Sơn gấp”…

Lần chở Kinh về Nam này, nhờ sự trợ lực hộ pháp của các vị phật tử ở Kinh đô rất nhiều. Do sắp hết năm nên tôi ở lại Bắc Kinh đến sang xuân.

QUANG TỰ 33 ĐINH MÙI (1907) - 68 TUỔI

Tháng giêng, tôi vận chuyển Tạng Kinh rời kinh đô vào đất Hổ tới Hạ Môn, mọi việc nhờ hai Thầy Văn Chất và Chuyển Đạo phụ sắp xếp, giúp đỡ.

Vừa đến đất Hạ thì tôi nhận được tin Lão Hòa thượng Diệu Liên đã viên tịch tại Quy Sơn ngay trong tháng này. Bấy giờ các bậc Trưởng lão, Tăng chúng khắp đất Hạ đều đổ về Quy Sơn dự lễ trà tỳ Hòa thượng. Linh cốt của Ngài được đưa về Hạ viện Cổ Sơn. Tôi tức tốc đến đó để lo hậu sự: xây tháp, tạc bia, truyền u Minh giới v.v

Ngày đêm bận rộn tất bật, đến mồng 10 tháng 4 thì làm lễ tiến tháp. Khi tháp vừa xây xong thì trời đổ mưa tầm tã suốt nửa tháng, khiến mọi người rất lo. Đến ngày mùng 8, khi truyền giới Bồ-tát xong, thì mưa tạnh. Sang mồng chín thì trời quang, trong trẻo. Hôm ấy, quan thân sĩ thứ kéo nhau lên núi tấp nập.

Đúng ngày mùng 10, làm lễ nhập tháp, cúng tế cả trăm bàn, đại chúng tụ lại tụng kinh. Cúng dường xong, đến lúc tụng chú Biến Thực, thì bỗng có luồng gió xoáy nổi lên hốt hết phẩm vật hiến cúng lên trời. Rồi từ linh khám xẹt một luồng hào quang xông thẳng lên đỉnh tháp, ai thấy cũng tán thán. Buổi lễ hoàn tất, khi đại chúng trở về chùa thì mưa lại trút xuống tầm tã như trước. Linh cốt của Hòa thượng được chia làm hai: Một nửa nhập tháp, một nửa đưa về chùa Cực Lạc ở Nam Dương thờ phụng.

Mật hạnh khó nghĩ lường

Lúc nghinh đón Tạng Kinh và hài cốt của Hòa thượng về Nam, đến Đình Quan Âm chùa Tân Tức (đảo Pênang), thì đại chúng đi đón có đến mấy ngàn người. Khi tụng kinh xong, tới hồi tụng chú Biến Thực, thì trời lại nổi một trận gió, rải hoa khắp nơi hàng vạn đóa, từ đỉnh linh khám xẹt một luồng bạch quang, bay thẳng đến đỉnh tháp cách đó một cây số.

Hai sự kiện này chính tôi đích thân tham dự, được chứng kiến tận mắt, nghe tận tai. Phật từng dạy: “Mật hạnh khó nghĩ lường”. Thuở còn sống, việc tu của Hòa thượng tôi không rõ, chỉ thấy Ngài không chuyên về Thiền, Tịnh… một bề lo kiến tạo và tu sửa chùa viện, tiếp chúng kết duyên, lấy đó làm bổn phận. Ai ngờ phút cuối đời của Ngài lại có những việc đặc biệt lạ lùng như thế.

Tôi từ sau khi xuất gia, phiêu bạt khắp nơi, đã lâu không thân cận Ngài, mấy mươi năm bặt tin tức, không gần gũi hỏi thăm, thật phụ ân đức của Ngài. Đến giờ phút chót thì tôi được lo hậu sự, xây tháp, phân chia xá-lợi… Nhớ lại những gì Ngài từng căn dặn thì hình như Ngài đã biết trước hết cả. Việc này thật khó nghĩ lường. Tôi chỉ kể sơ làm bằng chứng, mong có thể làm tăng thêm niềm tin cho người sau.

Nhân duyên lạ kỳ

Thuyền đến Đơn Na, các vị ở Quan Âm Đình mời tôi giảng Tâm Kinh. Xong việc, tôi xuống thuyền đi Thái Lan. Trên thuyền không có thức ăn chay, suốt ngày tôi ngồi kiết-già. Có một vị khách người Anh tiến lại trước chỗ tôi ngồi, nhìn chăm chú và hỏi:

-Hòa thượng từ đâu đến?

Biết ông ta sành tiếng Hoa, tôi đáp:

-Tôi ở Vân Nam.

Ông liền mời tôi ra phòng khách, đãi bánh và sữa bò. Nhưng tôi không ăn. Ông hỏi:

-Thầy ở miệt nào của Vân Nam?

-Chùa Nghinh Tường, núi Kê Túc.

Ông bảo:

-Đây là ngôi chùa có qui củ rất tốt.

-Ông đến đó bao giờ?

-Hồi làm lãnh Sự ở Côn Minh, Đằng Xung, tôi có đi tham quan các chùa ở khắp nơi.

Rồi ông Lãnh Sự hỏi tôi:

-Thầy ra nước ngoài làm gì?

Tôi kể mình thỉnh Đại Tạng Kinh chở về đất Điền, do thiếu lộ phí nên phải sang Tân Tức hóa duyên. Ông ta nói:

-Thầy có mang công văn theo không?

Tôi trình công văn và sổ hóa duyên ra. Ông xem và ghi vào con số ba ngàn đồng, quả là nhân duyên kỳ lạ! Xong, ông mời tôi dùng thức chay, cùng đi thuyền đến Thái Lan, lên bờ mới chia tay.

Tôi đang ngụ tại chùa Long Tuyền giảng Kinh Địa Tạng thì vị Lãnh sự Anh tìm đến trao cho tôi ba ngàn đồng rồi đi. Tôi muốn trở về Vân Nam, xây viện chứa Kinh (Tàng Kinh Điện) nhưng do sở phí còn thiếu quá nhiều, tiền cần đến vài muôn mà chuyến đi này hóa duyên chưa được bao, nên giảng Kinh Địa Tạng xong, vài ngày sau tôi lại giảng Phổ Môn phẩm, có khoảng vài trăm người đến nghe.

Một hôm, tôi đang ngồi kiết già nhập định, thì quên luôn việc giảng kinh, ngồi thẳng đến chín ngày sau mới xuất định. Chuyện này đồn vang đến kinh đô, khiến từ Quốc vương, Đại thần, thiện nam tín nữ đều tìm đến lễ bái. Sau khi xuất định, tôi giảng kinh xong thì Quốc vương thỉnh tôi vào cung tụng kinh, cúng dường và khẩn khoản xin quy y. Quan thân sĩ thứ cũng đến quy y hơn mấy ngàn người.

Tỳ kheo ơi! Y, bát, giới chớ lìa thân

Sau lần nhập định ấy, đôi chân tôi bị tê liệt, mỗi lần cử động rất khó khăn. Sau đó, toàn thân tôi cứng đờ giống như cây khô, tôi không thể cử động cầm nắm gì, đến ăn cũng phải có người giúp. Các bác sĩ, lương y được mời đến chữa trị đủ cách mà bệnh không thuyên giảm, bệnh còn tăng nặng đến miệng tôi không thể nói và chẳng còn nhìn thấy được gì. Thầy thuốc thảy đều bó tay, nhưng tôi cảm thấy lòng rất bình thản, tuyệt chẳng thống khổ. Mọi việc tôi đều buông bỏ hết. Chỉ duy nhất một việc tôi không buông được – là tấm chi phiếu tôi may cất giấu trong cổ áo hiện thời không ai biết – Khổ nỗi, miệng tôi giờ không nói được, mà tay lại chẳng thể nhúc nhích. Lỡ như tôi chết đi… chỉ một mồi lửa là thiêu xong hết, nhưng… Đại Tạng Kinh sẽ chẳng chở về được đến nơi và lầu các Kê Túc khó bề xây dựng… việc này làm sao có thể bỏ mặc cho đành?…

Nghĩ đến đây tôi rơi nước măt, thầm khấn cầu Tôn giả Ca-diếp gia hộ cho. Khi đó sư Diệu Viên thấy tôi chảy nước mắt, miệng mấp máy… bèn tiến đến kề tai vào lắng nghe. Tôi nhờ ông lấy chén nước cúng ngài Ca-diếp cho tôi uống. Uống xong, tôi cảm thấy thân tâm thư thái mát mẻ và thiếp đi. Rồi tôi mơ thấy một vị Tăng hình dáng giống như ngài Ca-diếp, ngồi bên cạnh, lấy tay hữu xoa đầu tôi và bảo:

– Tỳ kheo ơi! Y, bát, giới chớ lìa thân. Đừng lo buồn nữa… Dùng y bát làm gối thì sẽ ổn thôi…

Tôi nghe lời, lấy y bát làm gối, xoay đầu lại nhìn thì chẳng thấy Tôn giả nữa, lúc này toàn thân toát mồ hôi, ngay đó cảm thấy an lạc khôn tả. Tôi đã có thể nói được chút ít, liền nhờ sư Diệu Viên đến trước bàn thờ Hoa Đà xin thuốc. Bắt được hai vị thuốc Dạ Minh sa và Mộc trất. Tôi uống xong, mắt liền thấy, miệng nói được. Lại xin ngài Hoa Đà một phương thuốc nữa, lần này toa cho là đậu đỏ loại nhỏ hạt. Tôi bèn dùng đậu đỏ nấu cháo ăn chứ không ăn tạp gì thêm nữa. Dùng như vậy được hai ngày thì đầu tôi lúc lắc được, lại cầu Hoa Đà tiếp tục, toa cho vẫn là đậu đỏ. Từ đó, tôi dùng đậu đỏ làm thức ăn. Đại tiểu tiện được thông, bài tiết ra đen thui. Dần dần tôi đỡ hơn, có thế ngồi dậy và bước đi được. Tính ra bệnh đã kéo dài hơn 20 ngày.

Tôi tạ ân đại chúng đã vì mình mà lao tâm phí sức, sư Diệu Viên ngày đêm túc trực chăm nom thật là cảm động. Tôi cũng lễ tạ ngài Hoa Đà, nguyện rằng sau khi xây xong Điện Già Lam, nhất định sẽ lập bàn thờ Ngài, cho thiên hạ đến bói xin thuốc được như ý.

Bệnh lành, tôi tiếp tục giảng Luận Khởi Tín. Lúc sắp xong, được chùa Cực Lạc ở Tân Tức phái người đến đón. Vua Thái Lan, các vương công đại thần, chư Phật tử thiện nam tín nữ đều đến tiễn biệt và cúng dường rất nhiều, nên được món tiền rất lớn. Khi tôi vào cung tụng Kinh, vua Thái Lan đã hiến tặng 300 mẫu đất tại Đỗng Lý, tôi bèn giao cho Hòa thượng Thiện Khánh chùa Cực Lạc, thiết lập xưởng cao su tại đây và cùng hai sư Thiện Khâm, Bảo Nguyệt ở lại xưởng đến hết năm.

QUANG TỰ 34 MẬU THÂN (1908) - 69 TUỔI

Mùa xuân, tôi vẫn ở tại xưởng. Sau đó cùng Hòa thượng Thiện Khánh đến đạo tràng Quan Âm Các (do ông thành lập) đi tham quan các thắng cảnh xong thì tôi trở về chùa Cực Lạc, giảng phẩm Hạnh Nguyện trong bộ Luận Khởi Tín. Giảng kinh xong, tôi đóng cửa bế quan, đình chỉ việc giảng dạy, ngưng tiếp khách, ở chùa Cực Lạc đến hết năm.

Năm này, ngày 21 tháng 10, Hoàng đê mất, miếu hiệu là Đức Tông.

Ngày 22, Thái hậu Từ Hy tạ thế.

02

TUYÊN THỐNG 1 – KỶ DẬU (1909) - 70 TUỔI

Việc vận chuyển Kinh khởi hành từ đảo Tân Tức, đến Ngưỡng Quang (Miến Điện) thì cư sĩ Cao Vạn Bang ra đón, tôi trú tại nhà cư sĩ hơn một tháng, sau đó ông hộ tống tôi đến Ngõa Thành. Lúc ở Ngưỡng Quang, Cao cư sĩ có thỉnh một tượng Phật bằng ngọc cúng dường chùa, tôi định rước về chùa Chúc Thánh thờ. Nhưng khi thuyền đến Tân Nhai, chúng tôi trú ở Đình Quan Âm, do đồ quá nhiều, phải thuê ngựa chở đến núi Kê Túc, nội hành lý không thì số ngựa mướn chở đã lên đến hơn 300 con. Vì tượng ngọc Phật quá nặng, ngựa không chở nổi, thuê người không ra, đành gởi tạm ở Đình Quan Âm, phải mấy năm sau mới thỉnh về được. Cao cư sĩ lưu lại đây hơn 40 ngày, đích thân lo liệu mọi việc, ông đã cúng của lại góp công, thật là hiếm có. Phái đoàn khởi hành, có hơn ngàn người hộ tống, đi qua Đằng Xung, Hạ Quan, các nơi v.v… đều được dân địa phương nghinh tiếp.

Phật Pháp vô biên

Đi hơn 10 ngày, người ngựa đều bình an, đặc biệt ở đoạn đường từ Hạ Quan đến Đại Lý, trời bỗng nổi sấm chớp, hồ Nhĩ Hải dậy sóng, hơi mây biến hóa kỳ ảo tạo ra nhiều cảnh tượng lạ lùng (nhưng không hề mưa). Về tới cổng chùa, (khi đại lễ nghênh Kinh đã đón được Đại Tạng vào trong an ổn rồi) thì mưa mới trút xuống tầm tã tới ngày hôm sau mới tạnh. Mọi người đều xúc động tán thán, cho là Lão rồng hồ Nhĩ Hải nghênh đón Kinh. Lúc đó quan Tổng đốc tỉnh Vân Nam, Quí Châu là Lý Kinh Hy, vâng chiếu chỉ triều đình, phái Sứ đến Đại Lý, cùng các quan đồng tới nghênh đón Kinh, được tận mắt chứng kiến các cảnh tượng huyền ảo này, ai nấy không nhịn được, đều suýt xoa tấm tắc ca ngợi “Phật Pháp vô biên”.

Phái đoàn nghỉ tại Đại Lý độ mười hôm, rồi từ Hạ Quan đi đến huyện Tân Xuyên, thẳng tới chùa Chúc Thánh, suốt lộ trình luôn được bình an, không có giọt mưa nào rơi xuống các hòm đựng Kinh.

Chở Kinh về đến chùa đúng vào ngày cuối năm – tức 30 tháng chạp – nhằm ngày Hương hội, ai cũng hoan hỷ, cho là điểu chưa từng có.

Muốn sống thì phải qui y Tam Bảo

Lúc chở Kinh đến chùa Vạn Thọ, Đằng Xung, tôi đang ngồi trong tiệm trò chuyện với Đề đốc Trương Tùng Lâm, thì bỗng có một con bò vàng chạy đến quỳ xuống trước mặt tôi, mắt nó tuôn lệ đầm đìa. Lúc này ông chủ bò là Dương Thắng Xương cùng đám người rượt đuổi bò cũng vừa chạy đến. Tôi nói với con bò: – “Con muốn sống thì phải quy y Tam Bảo”. Bò liền gật đầu. Tôi bèn thuyết Tam Quy rồi bảo nó đứng dậy, nó dễ dạy như người. Tôi lấy tiền bồi thường cho Dương Thắng Xương, nhưng y không dám nhận. Dương xưa nay chuyên sống bằng nghề mổ bò, giờ quá xúc động về chuyện này, nên dũng mãnh phát thệ: Từ đây bỏ hắn nghề đồ tể và xin quy y với tôi, Dương còn phát nguyện là sẽ ăn chay trọn đời. Đề đốc họ Trương chứng kiến cảnh này cảm động lắm, liền mời Dương Thắng Xương vào làm việc ngay trong tiệm của mình.

TUYÊN THỐNG 2 CANH TUẤT (1910) - 71 TUỔI

Từ khi triều đình ra chỉ dụ cấm xâm phạm tài sản đất đai của chùa cho đến lúc Tạng Kinh được thỉnh về núi. Xem như Tăng chúng cả tỉnh an cư tạm ổn. Lý đề đốc là quan tỉnh Điền, phái người lên núi thăm và dẫn hết gia quyến đến xin quy y, dâng lễ cúng dường. Tôi cảm tạ ông. Sau đó tôi mời sư Giới Trần ra thất, nhắc nhở chư vị ở núi tôn trọng giới luật, khởi xướng việc giáo dục thanh niên, bài trừ tệ nạn. Đạo phong Kê sơn từ đây được chấn chỉnh. Tôi xin Quận trưởng Tân Xuyên thả các vị Tăng bị giam trong ngục và ân xá, giảm khinh cho các tội nhân.

Mùa hạ, tôi nhận được thư nhà do Cổ Sơn chuyển đến. Bấm đốt tay tính đã hơn 50 năm, tôi làm 3 bài thơ, trong đó có mấy câu:

Chi thử nhất sinh thanh bạch nghiệp
Cánh vô dư Sự ký tâm điền
Chỉ mong sạch nghiệp một đời
Đâu còn nhớ chuyện dư hơi làm gì

Cửu hỷ hồn vong trần thế sự
Mạc tương dư tập đáo Vân biên.
Chuyện đời lâu quá đã quên
Chớ đem thói cũ đến bên Vân này.
  • Ni sư Diệu Tịnh

Ni sư Diệu Tịnh họ Vương, là Thứ mẫu của ngài Hư Vân. Thân mẫu ngài Hư Vân là Nhan phu nhân, tuổi đã 40 mà chưa có con, nhờ khẩn cầu Đức Quan Âm mới có mang. Khi hạ sinh Ngài, thấy là một bọc thịt nên phu nhân thất vọng quá mà từ trần, Thứ mẫu lãnh việc nuôi dưỡng Ngài. Tánh ngài Hư Vân không thích ăn mặn, đến tuổi đi học thì không hảo sách Nho, lại ưa kinh Phật, phụ thân thấy vậy không vui, thường nghiêm trách. Năm Đồng Trị thứ 3, Giáp Tý, phụ thân mất, thứ mẫu Ngài bèn dắt hai cô dâu vào chùa xuất gia làm ni. Xuất gia được bốn tuổi hạ, cô họ Điền bị bệnh từ trần, còn lại cô ni họ Đàm pháp danh Thanh Tiết hiện ngụ ở Quan Âm Sơn thuộc đất Tương, bà đã gởi thư cho ngài Hư Vân báo tin thứ mẫu về cõi Phật năm Kỷ Dậu, được 8 tuổi hạ. Khi lâm chung Thứ mẫu đã ngồi kiết già, lưu lại bài kệ:

  1. Nhân sinh dưỡng tử hữu hà ích Dực ngạnh triền si tiện xung phi Hoài thai mệnh nhược huyền ty hiểm Ký sinh đắc an tạ thần kỳ Nhũ hộ bất quyện niệu thỉ khổ Như Sư phúng cầu bất tạm ly Đãi đắc trĩ sổ thành bằng khứ Từ thân suy lão du kháo thùy?

Người đời nuôi con có ích gì Đủ lông đủ cánh liền bay đi Mang thai mạng mẹ kề nguy hiểm Sinh nở bình an tạ đất trời Nuôi dọn chẳng nê mùi cứt đái Bồng ẵm chăm nom chẳng tạm rời Vừa mới lớn khôn liền tung cánh Cha mẹ nhờ ai lúc lão suy?

  1. Huynh bạc đệ hàn phụ vong cố Khí ngã bà tức ánh hà y Ngưng tình nan giải cúc dục niệm Ích tưởng ích bi linh nhân đề Dục tác quỷ mẫu tầm tử khứ Cử mục vân sơn vạn lý vi Nhữ năng chí biện sinh tử sự Bất kiến Bàng Uẩn bả đạo vi?

Huynh bạc, đệ hàn, cha mất sớm Ta cùng dâu dại biết nhờ ai? Dứt tình, không nghĩ công nuôi dưỡng… Càng tưởng càng buôn lệ đẫm mi Muốn làm mẹ quỷ tìm con dại Mây núi chập chùng xóa lối đi Chí con nhất quyết lo sinh tử Sao không học hạnh của Bàng Long?…

  1. Tục tình pháp ái hà thù nghĩa Sơn cầm thượng hiểu tê lạc huy Tuy hoạch đồng nguyên phụng Phật tự Nhật tẩy hàn sơn lãnh Thúy Vi Nhi ký tảo vi không vương tử Thế tôn tích tằng độ A Di. Hận tư Ta Bà tận phiền não Hưu tâm kim hướng Cực Lạc quy.

Pháp ái tình đời có khác đâu? Chim còn về tổ lúc hoàng hôn Tuy được chung nguồn nơi cửa Phật Nắng xua giá lạnh núi non xanh Con đã sớm làm con Đúc Phật Thế Tôn xưa còn độ mẹ dì… Buồn cõi Ta bà nhiều phiền lụy Dừng tâm, ta hướng Cực Lạc đi.

  1. Mỗi nhân ân ái luyến hồng trần Tham mê vong thất bổn lai nhân Bát thập dư niên giai huyễn mộng Vạn sự thành không vô nhất nhân Kim triêu giải thoát sinh tiền lụy Hoán thủ liên bang tịnh diệu thân Hữu duyên niệm Phật quy Tây khứ Mạc ư khổ hải cam trầm luân.

Bởi do ân ái luyến hồng trần Đắm say quên mất bổn lai nhân Hơn tám mươi năm đều huyễn mộng Vạn sự thành không chẳng một người Sáng nay giải hết duyên đời trước Đổi lấy thân vàng cõi Lạc Bang Có duyên niệm Phật về Tây nhé Đừng mê biển khổ chịu trầm luân.

Ngài Hư Vân được thư, buồn vui lẫn lộn. Buồn là vì ân nuôi dưỡng chưa báo đáp, vui vì thứ mẫu xuất gia hơn 40 năm, mệnh chung không điên đảo, lưu kệ mà mất, chứng tỏ đã được vãng sinh Tây phương.

  • Năm Dân Quốc 11 (1922) mùa hạ Nhâm Tuất
  • Trần Trung Hàn (Vinh Xương) kính ghi

Phụ lục: Thư của Sư ni Thanh Tiết:

“Kính lễ Tôn nhan,

Lòng luôn nghĩ đến, song núi mây cách trở, do liên lạc khó khăn nên thư gởi tới Ngài phải chậm. Kính chúc Ngài động, tịnh an tường, pháp thể kiện khang, được vậy thì chẳng mong gì hơn.

Từ khi Ngài giã biệt gia sơn, đến nay đã hơn 50 năm. Nghe Ngài ở Mân Hải (cổ Sơn), tôi không thể không nghĩ đến. Bởi chẳng rõ Ngài đã dạo gót đến phương nào, chốn non bồng ấy ở đâu? Vì quanh Ngài chẳng có người hộ vệ nên tôi cảm thấy rất ái ngại.

Bây giờ là tháng giêng dầu xuân, biết Ngài đã cao ẩn, sống an nhàn tự tại, tâm tư tôi buồn, vui lẫn lộn. Nghĩ đến Ngài trên đoạn lìa ân dưỡng dục, dưới dứt tình tóc tơ, đêm khuya trầm tư, tôi vẫn có thể an lòng, chấp nhận…

Nho giáo lấy Ngũ thường làm đạo, Tương Tiên xưa còn độ Văn công và vợ. Còn đạo Phật của ta chủ trương oán thân bình đẳng… Nhưng Điều Đạt, Da Du… Thế Tôn vẫn độ hết đấy thôi? Chúng tôi và Ngài nào phải không có duyên? Dù Ngài chẳng động niệm nhớ quê thì cũng nên quan tâm nghĩ đến ân đức cù lao. Nay xin kể sơ việc nhà cho Ngài hay:

Lúc Ngài ra đi, thân phụ cho người tìm kiếm khắp nơi, lòng thương nhớ khôn nguôi đến lâm trọng bệnh, ông cáo lão từ quan về nhà, dưỡng bệnh hơn một năm. Đến năm Giáp Tý, Đồng Trị thứ 3 (1864), giờ Tỵ, ngày mồng 4 tháng chạp, thì mệnh chung.

Sau khi an táng ông xong, Di mẫu dắt tôi cùng Điền Nga Anh đi tu. Di mẫu pháp danh Diệu Tịnh, Điền tiểu thư pháp danh Chơn Khiết, còn tôi là Thanh Tiết. Gia sản ở nhà giao hết cho chú thím quản để làm việc phước thiện công ích. Sau khi xuất gia được bốn hạ, Nga Anh bị bệnh thổ huyết, nhắm mắt về Tây.

Năm Ất Hợi, bá phụ bị bệnh mất ở Ôn Châu. Anh Cả tôi hiện trấn ở phủ Tây Ninh, còn Vinh Quốc, em họ Ngài thì dắt em thứ ba của Nga Anh đi Đông Dương. Riêng Hoa Quốc ở nhà để nối dòng, phần Phú Quốc thì từ khi đi theo Ngài tu đển nay bặt tin luôn. Lời xưa nói: “Đại thiện vô hậu” (nhà đại thiện không người nối dõi). Ngài tuy là Tăng tái sinh nhưng việc làm dứt hẳn đường hương hỏa, hạnh Bồ Tát độ sinh của Ngài vẫn không tránh khỏi lời đàm tiếu của kẻ ngu mê, cho là không hiếu nghĩa. Tôi vốn quý trọng linh căn thâm hậu của Ngài, thừa hiểu chí nguyện Ngài rất kiên cố, như hoa sen không nhiễm bùn nhơ. Vậy thì vì sao Ngài phải lìa bỏ quê? Quên hết cội nguồn? Tôi buồn đau trình thơ là vĩ muốn báo tin cho Ngài hay rằng:

Mùa đông năm ngoái, (Tuyên Thống năm đầu) 1909, Kỷ Dậu, vào giờ Thìn, ngày mồng 8 tháng 12, Vương thứ mẫu (tức Ni sư Diệu Tịnh) đã vĩnh biệt, về Tây. Lúc lâm chung, người ngồi kiêt-già đọc kệ. Làm kệ xong, khép mắt viên tịch. Có hương thơm lạ phảng phất mấy ngày, thân xác người vẫn đoan tọa tự nhiên như lúc còn sống.

Nay viết mấy dòng báo tin cho Ngài rõ việc nhà. Khi nhận được thư, xin Ngài hãy sớm lên đường (nhớ dắt Phú Quốc về theo) đừng chậm trễ, chớ phụ lòng tôi trông ngóng, được vậy thì thật may cho tôi. cầu mong Ngài – Bậc Thầy tôi – Được như Tôn giả Ca Diếp, phóng tử kim quang, làm bạn pháp cùng nhau.

Sa nước mắt ngóng trông, dù nói nghìn lời vẫn chưa hết ý, Ngày đêm mỏi mắt mong tin.

Quân diệc hồng nhạn biệt cố hương Xung tiêu độc tự hướng nam tường Khả lân đồng sào ai ai lữ Vạn lý thu phong tục hận trường.

Ngài như hồng nhạn biệt cố hương Bay thẳng, lòng không chút vấn vương Chỉ tội bạn buồn nơi tổ cũ Gió thu muôn dặm chở sầu thương.

Vọng đoạn thiên biên nguyệt Lệ tuyền đẳng mãn tình Ngã thê Tương giang thượng Trúc ngân dĩ thành ban Quân tắc thành đại đạo Huệ nghiệp nhật đương tân Tích thời hỏa trạch lữ Nguyên thị pháp thành thân.

Dõi nhìn trăng xế ven trời Lệ tuôn như suối bùi ngùi sầu vương Tôi ở đâu dòng sông Tương Nhìn vân trúc đã hằn đường thật sâu Ngài thành đạo thỏa chí mầu Trí tăng huệ sáng đức cao rỡ ràng Xưa nhà lứa ta bạn đường Nay đồng là bạn pháp thân nguyên thành

Kính chúc Ngài vạn an. Quan Âm Sơn, Thanh Tiết đảnh lễ trăm lạy. Kính thư”.

Phụ lục: BÀI KÝ VỀ HOA ƯU BÁT ĐÀM

Kinh Pháp Hoa nói: “Diệu Pháp này, chư Phật Như Lai, đúng thời mới nói, như hoa Ưu Đàm, đúng thời xuất hiện”. Giờ nói về điềm lành, ba ngàn năm mới hiện một lần. Hoa Ưu Đàm này tiêu biểu cho quả vị đương lai, còn gọi là: Linh thụy (điềm lành).

Vào thời nay, trước đây cũng có điềm lành ứng cho người nghe pháp. Phía Tây tỉnh Điền, núi Kê Túc, chỗ ngài Ca Diếp giữ y nhập định. Quanh núi mấy trăm dặm, đã từng hiện thánh tích linh hiển của chư đại Bồ-tát ở đây rất nhiều. Từ đời vua Hàm Phong và Đồng Trị trở về sau, Phật pháp tỉnh Điền suy vi cùng cực, đạo tràng hư nát hết phân nữa, những người còn ở trong chùa cũng không phải là trụ trì tốt. Tuy mang danh xuất gia mà chẳng biết đến giới, định, huệ… toàn là hạng tăng không oai nghi, Tùng lâm bại hoại, khó thể kể hết.

Đến cuối đời Thanh, khi Thiền sư Hư Vân (Đức Thanh) đến lễ Sơ Tổ. Thấy toàn núi không ai chịu cho khách tăng ở tạm, đã than: “Đây là Đạo tràng của Sơ Tổ mà tông phong đọa lạc, luật giáo bất hảo đến thế…”, Ngài mới phát nguyện ra sức chấn hưng tùng lâm mười phương, làm mô phạm cho toàn núi.

Sư đến dưới ngọn Bát Vu, chọn ngay trên nền cũ của Am Bát Vu làm chỗ cư trú. Ngài bắt đầu xẻ núi, đào đất, xây nên chùa Nghinh Tường, phải mấy năm mới xây xong. Quy củ Tăng già từ đây được chỉnh đốn. Cũng năm ấy, Sư vào Kinh đô thỉnh Đại Tạng Kinh, được vua ban Tử y, sắc đề biển ngạch, phong tên chùa là “Hộ Quốc Chúc Thánh Thiền Tự”. Sư vâng chỉ trở về núi tiến hành mọi việc.

Năm nay, Sư thăng tòa, giảng Kinh Lăng Nghiêm, thì cây dẻ to ở trước sân bỗng trổ hơn mấy mươi đóa Ưu Bát Đàm. Hoa to bằng cái chậu hình dáng giống như hoa sen, sắc tợ vàng ròng, bên trong có nhụy thơm, rất tinh khiết. Hoa nở mấy tháng chưa tàn, ai chiêm ngưỡng cũng tấm tắc khen, cho là lạ lùng, hi hữu. Núi Kê Túc nhiều năm chẳng được nghe đến Phật pháp, nay đã có phúc duyên được nghe, duyên hi hữu cũng giống như Hoa Đàm ngàn năm xuất hiện. Điềm lành này thật không thể nghĩ bàn.

Vào đời Minh, lúc Đại sư Hám Sơn chưa xuất gia, trước sân chùa có trồng cây chuối, cũng trổ ra một đóa sen vàng, ngót ba tháng chưa tàn. Về sau, quả nhiên Ngài là bậc Thầy của trời người. Khi Ngài dời đến Quảng Đông, hưng long đạo tràng Lục Tổ, lập pháp hội ở chùa Pháp Tánh, trước sân đó cũng lại trổ một đóa sen vàng. Thường khi đạo Pháp hưng thịnh, ắt có điềm lành ứng hiện, báo trước. Có thể nói rằng, các bậc cổ đức cao tăng, đức hạnh sáng chói như mặt trời mặt trăng, đạo phong bao trùm trời đất, không phải chỉ có một mà thôi…

Lúc Lục Tổ chưa xuất hiện, cây Bồ-đề đã được trồng trước ở nơi giới đàn. Khi Ngài La Thập chưa đến, thì trong hoa sen đã hiện hình lâu đài… Các điềm lành như thế, trong giáo điển đều có ghi rõ. Cũng vậy, lúc ngài Hư Vân đến đây giảng Kinh, cây dẻ già bỗng trổ bông Ưu Đàm. Khi Ngài truyền giới ở Vân Thê, cây mai khô lại trổ hoa sen phả hương thơm ngào ngạt… qua điềm lành này, có thể đoán rằng Phật pháp tỉnh Điền sẽ hưng thịnh không kém đời Nguyên, Minh ngày xưa.

Mùa thu tháng 9 năm Mậu Tuất. Đệ tử Bồ Tát giới Trương Phác Hoằng thành kính ghi.”

Phụ lục chuyện Ngài Hư Vân kể: Thị Giả Sùng Pháp

Lúc tôi ở chùa Chúc Thánh núi Kê Túc, thì Sùng Pháp làm thị giả, tính chú hiền lành thật thà. Đầu năm Dân Quốc, Quan Hiệp thống Lý Căn Nguyên kéo binh lên Kê Túc, tiến hành việc hủy chùa, đuổi Tăng. Tính mạng Tăng chúng toàn núi muôn phần đáng lo. Lúc đó, ông Lý dòm thấy Sùng Pháp mặt mũi thông minh dễ mến nên rất có cảm tình, liền bảo chú dẫn ông đi xem xét khắp nơi. Vừa dẫn ông đi, Sùng Pháp vừa cố gắng giải thích, phân trần cho ông Lý hiểu là Tăng chúng trong chùa đang bị oan. Lý nghe lời Sùng Pháp, truyền dừng ngay ác lịnh, toàn núi nhờ đó mà được an.

Sùng Pháp xuất gia ở chùa Nam Sơn thuộc thị trấn Nam Châu, chùa này có được mấy mươi mẫu đất, bị quan tịch thu hết. Lý điều tra biết được, buộc quan địa phương phải trả lại và Lý chỉ định cho Sùng Pháp được đến đấy làm Trụ trì chùa Nam Sơn, nhưng Sùng Pháp nhất quyết không chịu, chỉ xin ở lại làm Thị giả cho tôi mà thôi.

Gặp lúc tôi đảm nhiệm việc Giáo hội nên bận bịu tất bật, thường đi rày đây mai đó, bôn ba nhọc nhằn, Sùng Pháp đang bệnh mà vẫn ráng theo phụ giúp, nhưng giữa đường, bệnh phát nặng và chú lìa đời. Trải qua ba ngày, diện mạo nhìn giống như còn sống. Tôi xót thương lắm, trà tỳ xong đem xương cốt về chùa Cung Trúc, cho nhập tháp Phổ Đồng. Thấm thoát đã mấy năm trôi qua, chuyện cũng đi vào quên lãng.

Đến năm Dân Quốc thứ 6, tôi phải chở tượng Ngọc Phật từ Miến Điện về núi Kê Túc, lộ trình bắt buộc phải đi ngang qua đường Kim Ngưu, nơi này là vùng chiếm đóng của bọn cướp nổi tiếng hung dữ và gian ác. Chúa đảng tên Trương Kết Ba, thuộc dạng giết người không gớm tay. Chúng thường ra tay cướp bóc quấy nhiễu chung quanh, nên chẳng ai dám léo hánh qua lại chốn này. Vì vậy phái đoàn tôi đi trên đường, bỗng thành món mồi béo bở, vì nội lừa ngựa chuyên chở tính ra có mấy chục con, nếu quy thành tiền thì giá trị cũng đến mấy mươi vạn. Mà con đường này tiến, lui đều khó, dễ rơi vào vực thẳm. Đã đi là không thể dừng, tôi chỉ còn nước bắt buộc phải liều mạng, xông lướt hiểm nguy…

Khi cả đoàn đã tới được quán trọ, hành lý đồ đạc, lừa ngựa… tất cả đều phải để ngoài cửa. Tôi ngồi tịnh tọa một hồi, thần trí như đang mơ màng… thì bỗng thấy Sùng Pháp bước vào, dáng vẻ giống hệt lúc còn sống. Chú đắp y, trải tọa cụ ra lễ bái, thưa:

-Bạch Thầy! Thầy đừng lo, trên đường lúc nào cũng có đệ tử luôn theo hầu Thầy, tối nay bọn phỉ không tìm tới đâu!

Tôi biết là hồn phách anh linh, liền tặng cho chú một chưởng, nói:

– Ông chết rồi, còn tới đây gạt tôi!…

Đột nhiên tôi tỉnh giấc, Sùng Pháp cũng biến mất.

Đêm đó quả nhiên hoàn toàn an ổn, không xảy ra chuyện gì.

Tôi âm thầm thương cho Sùng Pháp, trong cõi u minh vẫn cố theo hầu tôi không rời, tặng cho chú một chưởng, ngay đó liền tỉnh.

Sùng Pháp là đồ đệ ưu tú thông minh, hiền lành, chân thật. Trong lúc bệnh nặng vẫn ráng theo lo cho tôi, vì Phật sự bôn ba, đến nỗi phải bỏ mình giữa đường. Chú là một Tăng sĩ mẫu mực, có đủ tác phong mô phạm. Vì vậy nên tôi cho ghi vào đây.

TUYÊN THỐNG 3 (1911) TÂN HƠI – 72 TUỔI

Mùa xuân, sau khi truyền giới xong, tôi cho khai bảy thất, trong 49 ngày, đề xướng tọa hương, tổ chức kiết hạ an cư và tất cả nghi lễ… Đến tháng 9, phong trào cách mạng Vũ Hán lan đến tỉnh Điền, khiến vùng này xảy ra biến loạn lớn. Huyện Tân Xuyên bị vây hãm suýt xảy ra đại họa. Vì quan Thống binh Lý Căn Nguyên hiểu lầm, kéo binh đến vây hãm và phá chùa trên núi Kê Túc, tôi phải giải thích cho ông rõ. Lý lui binh và xin quy y Tam Bảo.

(Những kỳ công của mình, ngài Hư Vân chỉ nhắc sơ qua. Song trong Điền Nam Ký Sự có thuật lại đầy đủ về đức độ của Ngài):

“Sư ở tỉnh Điền, ngoài việc hoằng pháp độ sinh, đã dẹp yên được nhiều họa lớn khó tưởng tượng nổi, xin lược ghi vài chuyện như sau:

Dàn xếp giúp Trương tri huyện

Năm Tuyên Thống cuối cùng, Tri huyện Tân Xuyên là ông Trương, người Trường Sa, tính tình hung hãn, ưa gây sự. Ớ Tân Xuyên có nhiều trộm cướp, hễ Trương bắt được là giết thẳng, cương quyết thanh trừng đến cùng, do vậy mà lạm sát rất nhiều người. Đạo tặc ngày càng bành trướng, kết bè lập hội… Giới Thân sĩ vì muốn thoát nạn cướp bóc, sống an, muốn duy trì được tài sản, bất đắc dĩ phải ghi tên gia nhập vào hội của chúng. Do vậy mà họ vướng lụy, bị Trương gia hình. Chư Tăng ở Kê sơn lỡ làm sai luật pháp, cũng bị bắt mấy mươi người, Trương chỉ kính trọng có Hòa thượng Hư Vân thôi.

Khi cách mạng Tân Hợi bùng nổ, dân Tân Xuyên hưởng ứng trước nhất, nhóm đảo chính hè nhau bao vây huyện. Trương lo cố thủ bên trong, lúc này bên ngoài lại không có binh cứu viện, xem như ông cầm chắc cái chết trong tay. Hòa thượng Hư Vân thấy tình hình nghiêm trọng, liền xuống núi, đi thẳng đến huyện. Đám đông vây thành thấy Ngài liền nói:

-Tên quan này là kẻ cùng hung cực ác, Sư hãy dụ hắn ra đây để tụi này giết quách đi cho hả giận!

Sư ậm ừ… Sau đó gặp tên thủ lĩnh phe đảo chính, y cũng ngỏ ý như thế, Sư bảo:

-Giết ông Trương không khó, chỉ sợ lời đồn không tốt lan xa. Vì đại sự chưa chắc chắn mà các ông đã vội vây thành giết quan, lỡ như viện binh đến, các ông sẽ bị trừng phạt và rước lấy kết cục không hay…

Thủ lĩnh hỏi:

-Vậy phải làm sao?

Sư ôn tồn góp ý:

-Thành Đại Lý cách đây hai ngày đường, Nghe kể quan Bố chánh Tứ Xuyên đã cử Vương công đến đó trấn nhậm rồi, các ông hãy đến Đại Lý mà kể tội ông Trương, tức nhiên ông ta sẽ bị xử theo luật, còn các ông thì không mắc tội vạ gì…

Thủ lĩnh nghe có lý, bèn truyền lui binh và nhường đường cho Sư đi vào thành. Lúc này ông Trương đang vác súng ống chuẩn bị cho trận đại tử chiến. Thấy Sư, ông bắt tay chào, nói:

-Tôi sắp ra đi vì nghĩa đây! Mớ xương tàn này phiền Thầy đắp cho một nắm mồ ở Kê Túc là đủ.

Sư an ủi:

-Không sao đâu! Lúc này các Thân sĩ do Trương Tỉnh Cán lãnh đạo đang rất được lòng dân, hãy mời ông ta đến đây hòa giải thì ổn thôi.

Quả nhiên khi Tỉnh Cán bàn bạc thương nghị xong thì đám người nổi loạn đều rút lui.

Tỉnh Cán sang Đại Lý, gặp Vương công đang kéo binh từ Đại Lý đến giải vây cho Trương tri huyện và hô tống ông ta rời khỏi huyện. Tỉnh Điền được độc lập. Sát Ngạc được bổ làm Đô đốc tỉnh Điền. Con trai ông Trương là bạn đồng học với Ngạc cũng được cử làm Trưởng ty Ngoại Giao. Sau sự cố này, ông Trương gởi thơ, hết lòng cảm tạ Sư:

“Ân đức của Ngài rất lớn, Ngài không chỉ cứu sống một mình tôi mà còn tạo phúc cho muôn dân ở Tân Xuyên. Bởi, nếu tôi có mệnh hệ nào, thì mối thù giết cha lẽ nào con tôi không rửa hận?…”

Chỉ một chuyện này thôi, cũng đủ thấy tầm quan trọng của việc Sư làm.

Giúp Tây Tạng thoát họa chiến tranh

Năm Dân Quốc vừa được thành lập, Đức Phật sống Tây Tạng cho rằng nước mình xa xôi hiểm trở, không chịu đổi cờ (theo Trung Quốc). Chính quyền Trung Quốc liền sai Ân Thúc Hoàn tỉnh Điền làm Tổng Tư Lịnh kéo hai Đại đội binh đi đánh Tây Tạng. Quân tiền phong đã đến Tân Xuyên, Sư rất lo, sợ vùng biên giới nổ ra ác chiến thì tai họa khó lường, Ngài bèn đi theo đoàn quân tiền phong đến Đại Lý, tìm gặp Ân Thúc Hoàn, góp ý:

-Người Tây Tạng vốn tin Phật, sao Ân Đoàn trưởng không phái một người giỏi Phật lý đến thương thuyết, tránh được cảnh dấy động can qua?

Ân nghe nói có lý, bèn thỉnh Sư đại diện thương thuyết giùm. Sư giải thích:

-Tôi là người Hán, đến đó e khó thành công. Chi bằng Ngài hãy đến Lệ Xuyên cầu thỉnh Lạt- ma Đông Bảo, vị này là bậc đạo cao đức trọng, rất được dân Tây Tạng yêu kính, tin tưởng, từng được phong là Tứ Bảo Pháp Vương… nếu Lạt-ma Đông Bảo nhận lời thì việc sẽ thành công.

Ân Thúc Hoàn bèn phái người theo Sư đến thỉnh cầu Lạt-ma Đông Bảo. Mới đầu, Lạt-ma khăng khăng từ chối, viện cớ rằng mình đã già yếu. Sư thấy vậy liền nói:

-Họa dụng binh của Triệu Nhĩ Phong dân Tây Tạng đến nay hãy còn kinh hồn bạt vía, lẽ nào Ngài tiếc ba tấc lưỡi của mình mà đành để cho ngàn vạn sinh mạng lẫn tài sản của bao người lâm vào cảnh thương vong?…

Nghe đến lời này, Lạt ma Đông Bảo liền đứng bật dậy, cúi đầu chắp tay vái tạ Sư và nói:

-Tôi đi! Tôi sẽ đi!

Lạt Ma đi cùng Sư Pháp Ngộ vào Tây Tạng. Thương thuyết xong, tỉnh Điền bãi binh. Dân Quốc thống nhất thành một nước. Trước đây, nhiều năm xứ Tây Khang và Tây Tạng thường xích mích với Trung Quốc, chiến tranh nổ ra dai dẳng không ngừng, sau cuộc thương thuyết trên, suốt 30 năm được bình an vô sự.

Hóa độ Lý Căn Nguyên

Sư rước Tạng Kinh về tỉnh Điền, sắp xếp phân phối và giáo hóa, các quan lại sĩ phu trong vùng, ngày càng kính ngưỡng Sư. Dân chúng từ già đến trẻ, không ai mà không biết đến Hòa thượng Hư Vân.

Khi cách mạng Tân Hợi thành công, vua Thanh mất ngôi, phong trào hủy chùa đuổi Tăng bộc phát lan khắp các tỉnh. Lúc này toàn bộ binh quyền tỉnh Điền đều thuộc về quan Nhiếp thống Lý Căn Nguyên. Ông kéo một đội binh hùng hậu đi khắp nơi tiến hành việc đuổi Tăng phá chùa. Nghĩ rằng Sư chỉ là một Hòa thượng quèn mà lại có khả năng mê hoặc lòng dân thái quá, nên ông chỉ đích danh Sư, truyền lệnh bắt, tai họa xem ra khó lường. Tăng chúng các nơi đều trốn hết. Riêng chùa của Sư có hơn trăm chúng, cũng bị kinh hoảng lây. Mọi người khuyên Sư nên trốn đi lánh nạn… Sư điềm nhiên bảo:

-Quý vị ai muốn đi thì cứ đi. Phần tôi, nếu đấy là nghiệp báo của mình, thì có trốn tránh cũng vô ích. Thà tôi đem thân này theo Phật…

Để Phật giáo tồn tại làm cái quái gì?

Nghe vậy Tăng chúng chẳng ai muốn bỏ đi, đồng tình nguyện ở lại. Vài ngày sau, quan Nhiếp thống Lý Căn Nguyên kéo binh đến chân núi, trước tiên ông đóng quân ở chùa Tất Đàn, ra lịnh cho binh lính lên Kim Đỉnh phá hủy tượng đồng Đại vương, Điện Phật và Điện Thờ Chư Thiên trên núi Kê Túc. Sư thấy tình thế cấp bách, bèn một mình xuống núi, đến tận cửa doanh trại, xin yết kiến ông Lý. Lính gác thấy Sư, bàng hoàng kinh hãi, đã không dám vào bấm báo mà còn thúc hối Sư hãy mau mau trốn đi, kẻo không họa dữ ập xuống, nguy hiểm khó lường… nhưng Sư chẳng nghe, cứ bình thản đi thẳng vào. Thấy Lý Căn Nguyên cùng quan Bố chánh Tứ Xuyên (là Triệu Phiên) đang ngồi trong điện. Sư cúi chào, Lý không thèm nhìn đến. Triệu Phiên có quen biết Sư nên hỏi thăm: – “Ngài đến có việc gì?”… Sư thuật lại việc vừa xảy ra. Lúc này Lý mặt bừng bừng sắc giận, thịnh nộ quát to:

-Để Phật giáo tồn tại làm cái quái gì, nào có ích chi đâu?…

Sư thưa:

-Thánh nhân lập giáo cốt để giúp đời lợi dân, dạy người sơ cơ tu sửa thân tâm, làm lành lánh dữ. Từ ngàn xưa đến nay, chính trị và tôn giáo luôn song hành, hỗ tương nhau. Chính trị giúp an dân, còn tôn giáo giúp cảm hóa dân, dạy dân chỉnh đốn đức hạnh. Đạo Phật dạy người điều tâm, vì tâm là gốc, nếu gốc được chánh thì vạn vật được yên, thiên hạ thái bình.

Mặt Lý dịu lại, y nói:

-Cho dù là vậy thì cũng chẳng nên đúc tượng tạc hình làm chi, chỉ tốn uổng phí tiền bạc….

Sư thưa:

-Phật dạy: Dùng tướng tiêu biểu cho Pháp. Nếu không dùng tướng để biểu trưng thì Pháp chẳng thể lan rộng, chẳng thể giúp người sinh tâm kính sợ. Mà lòng người nếu không biết kính sợ, thì không điều ác nào mà không làm – Vì không có sự nể sợ kìm cương thắng bớt… nên họ sẽ không cẩn thận lúc gieo nhân và hành động dễ rơi vào sai, trái. Do vậy mà tai họa loạn lạc sẽ phát sinh. Còn nói theo thế tục thì: “Nê Sơn lễ Thánh, Đinh Lan đẽo cây” Ớ nước ta các tộc họ đều có nhà Từ đường, thậm chí còn thờ phụng danh tượng của các nước Đông, Tây. Tượng được tôn tạo, chẳng qua là giúp người sinh tâm tin kính, có chỗ để quy hướng. Nhờ có lòng kính tin, người ta mới biết sợ tội tạo phúc, từ đó sinh ra biết cẩn trọng dè dặt trong mọi hành động. Cho nên hiệu quả và công đức của việc này không thể nghĩ lường. Song nói cho cùng thì “Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai”.

Mặt Lý tươi dần. Ông gọi người mang trà đến mời Sư và hỏi tiếp:

-Nhưng… sao tôi thấy có nhiều Hòa thượng hành sự không đàng hoàng, làm lắm chuyện kỳ cục để thành hạng phế thải của quốc gia?

Sư thưa:

-Hòa thượng là từ dùng để gọi cho có sự khác biệt. Đừng vì chứng kiến vài tu sĩ không xứng đáng mà phế hết chư Tăng. Lẽ nào thấy một-hai vị Tú tài tệ lậu mà trách đức Khổng Tử? Như hiện giờ Ngài thống lĩnh binh lính, mặc dù quân kỷ có nghiêm minh, song không có nghĩa là tất cả binh sĩ đều thông minh, chính trực như Ngài! – Biển không bỏ loài tôm loài cá, dung chứa hết tất cả nên mới gọi là lớn. Phật pháp cũng giống như biển, không gì mà không dung. Tu sĩ là người được Phật cảm hóa, mộ đạo nên phát tâm xuất gia, hộ trì Tam bảo, họ âm thầm sửa đổi và chuyển hóa lặng lẽ, có hiệu quả lợi ích rất lớn, không phải là hạng phế thải như ông nghĩ đâu!

Vẻ bất bình đã tiêu tan, nét hài lòng lộ ra mặt. Lý phấn chấn đàm đạo với Sư. Thỉnh thoảng mĩm miệng cười, chốc chốc lại gật gù tâm đắc… cử chỉ không còn xấc xược ngạo mạn nữa… đầu ông càng lúc càng cúi thấp, ra chiều rất cung kính.

Rồi… Lý mời Sư ở lại dùng cơm, thắp đuốc đàm đạo đến khuya. Sư tiếp tục giảng về nhân quả phân minh, lưới nghiệp chặt chẽ… sau đó bàn đến nghiệp báo nhân duyên, thế giới tương quan, chúng sinh tương tục, lời rộng ý sâu… càng nghe càng thích. Lúc này, Lý đã thưa thốt ôn tồn, cư xử nhũn nhặn. Sự nể trọng Sư thể hiện hết ra mặt, Lý đối với Sư cực kỳ lễ phép. Khi Sư giảng xong, Lý thở dài, tỏ vẻ hối hận, nói:

-Phật pháp cao siêu như vậy mà con không hiểu thấu, đến nổi kéo quân đi giết Tăng phá chùa, tạo tội ác nghiêm trọng, giờ biết phải làm sao?…

Sư bảo:

-Đây chỉ là do phong trào nhất thời khiến vậy, chẳng phải lỗi của ông. Mong rằng từ đây về sau, ông dốc sức bảo vệ hộ trì đạo pháp thì công đức này rất lớn….

Lý nghe Sư nói vậy rất mừng. Hôm sau ông theo Sư về chùa Chúc Thánh, ở chung với chúng Tăng, cùng ăn chay mấy hôm. Lúc này trong núi bỗng hiện ánh Đại kim quang, sắc vàng chói lọi, từ đỉnh núi đến cỏ cây, đều phủ màu hoàng kim. Nghe kể rằng: trong núi có ba loại hào quang: Phật quang, Ngân quang và Kim quang. Phật quang thì năm nào cũng có, còn Ngân quang và Kim quang thì từ hồi khai sơn đến nay, chỉ hiện có vài lần. Tận mắt chứng kiến cảnh này, Lý xúc động lắm, càng thêm kính tin Phật, đối với Sư một bề thủ lễ đệ tử, Lý tôn Sư làm Tổng Trụ trì vùng Kê Túc, rồi dẫn binh đi.

Rõ ràng, nếu không nhờ đạo cao đức trọng của Sư cảm hóa, thì làm sao trong chớp mắt có thể dễ dàng chuyển đổi được Lý Căn Nguyên hóa dữ thành lành như thế?

Tiếp đến, Hội Phật giáo ở đất Hổ chế đặt hiến chương mới, gây đụng chạm chống trái khắp nơi. Sư phải ra Bắc đến Hổ, cùng Ký Thiền, Dã Khai hội họp. Xong, Sư vào lại Nam Kinh gặp Tôn Trung Sơn để thương lượng việc sửa đổi hiến chương. Mọi việc hoàn tất, Sư lại cùng Ký Thiền đến Bắc Kinh gặp Viên Thế Khải. Rồi Ký Thiền ngồi thị tịch ở chùa Pháp Nguyên, Sư lo liệu mọi việc xong thì đưa quan tài về Nam.

Sư đến tỉnh Điền, gặp Thái Ngạc, xin phép mở chi nhánh hội Phật giáo tại Điền Kiểm và cho xây Phật học viện, lập trạm bố thí thuốc, thuyết giảng kinh pháp, làm đủ Phật sự… nhờ có Lý Căn Nguyên hết lòng giúp đỡ nên mọi việc đều được chu toàn. Suốt 40 năm về sau, Lý đóng góp hết mình vì đạo. Bất cứ pháp hội nào, buổi giảng nào cũng có mặt ông tham dự. Giờ đây Lý là một vị Đại hộ pháp trung thành đắc lực, mộ đạo chí thành”.

DÂN QUỐC 1 (1912) NHÂM TÝ – 73 TUỔI

Ngài Hư Vân kể:

Sau khi trở về tỉnh Điền, tôi thành lập chi nhánh Hội Phật giáo tại Cung Văn Xương (Miếu thờ vua Vĩnh Lịch), tổ chức Đại hội, mời sư Liễu Trần lập chi hội ở Quí Châu. Đức Phật sống và các vị Lạt-ma từ Tây Tạng qua dự rất đông, cùng bàn việc lập Trường Phật học, Bệnh viện, Đoàn hoằng pháp, các hoạt động phúc thiện v.v…

Con sáo ở điền tạng

Năm ấy, ở Đại hội Phật giáo Điền Tạng, có một chuyện lạ nhỏ. Dân làng đem một con sáo biết nói đến phóng sinh. Mới đầu nó còn ăn thịt. Tôi quy y xong, dạy nó niệm Phật thì nó không chịu ăn mặn nữa. Sáo rất ngoan, dễ bảo, biết tự động bay ra, bay vào. Ngày nào nó cũng niệm danh Phật và Thánh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm không gián đoạn. Một hôm, nó bị chim ưng bắt đi, giữa không trung, vẫn còn nghe tiếng nó niệm Phật lảnh lót. Tuy nó mang thân thú nhưng lúc sắp xả báo thân, kề cận cái chết mà vẫn không bỏ niệm Phật. Lẽ nào làm người, lại chẳng bằng con sáo nhỏ kia ư?

Năm ấy, tôi ở lại Côn Minh hết mùa đông.

Năm này:

-Mồng 1 tháng giêng, Tôn Trung Sơn nhậm chức Đại Tổng thống lâm thời tại Nam Kinh.

-Tháng 2, vua Tuyên Thống tuyên bố thoái vị, nhà Thanh mất.

  1. Động đất ở Côn Minh

Lúc tôi ở Côn Minh, Vân Nam tổ chức Hội Phật giáo thì toàn huyện Tích Nga, vào lúc 12 giờ đêm ngày mồng 2 tháng Giêng năm Nhâm Tý (1912), bỗng xảy ra trận động đất dữ dội: tường thành, nhà cửa, phòng ốc… đồng loạt đổ sập, người chết rất nhiều, chính quyền địa phương cùng Hội Phật giáo hợp lực cứu hộ. Tôi cũng đi theo, cùng mang dụng cụ đến phụ đào lấy thây người trong đống đổ nát. Trải qua năm ngày, số thi thể người lớn trẻ em lấy ra được tổng cộng hơn tám trăm. Trong đó có 84 cặp vợ chồng đang ngủ bị nạn. Kỳ lạ nhất là, có đôi vợ chồng bị chôn vùi nằm dưới đống đổ nát ngót mấy ngày, vậy mà khi được cứu lên vẫn còn sống và chẳng hề bị chút thương tích.

  1. Thị giả Đăng Tịnh

Đăng Tịnh người Tứ Xuyên, Đồng Châu. Triều Thanh năm Tuyên Thống thứ 2, đến Chúc Thánh xin thọ giới. Tính tình thông minh lanh lẹ, tu học tinh tấn. Năm Dân quốc thứ Ba, vào giới kỳ mùa xuân Đăng Tịnh được mời làm Sư dần lễ, lúc này Sa di đầu đàn là Chân Tịnh, Có mượn của chùa 48 đồng. Thọ giới xong thì y bỏ về luôn.

Tiền nợ bỏ mặc, có đòi cũng không trả. Một hôm y gởi thư đến nói là đã có vị Sư nọ ở chùa Chúc Thánh đến đòi nợ và y đã trả hết rồi, còn bảo đến lấy chứng cứ (rằng có giấy tờ thường trụ đóng dấu hẳn hoi). Đăng Tịnh kiểm xem, nghi ngờ, nhìn kỹ, thì thấy dấu đóng trong phiếu đều là ngụy tạo. Giận lắm, muốn làm cho ra lẽ, nhưng tôi ngăn lại. Năm sau, đại dịch bộc phát, dân làng dưới chân núi chết hơn phân nửa, cả chùa đều bị nhiễm bệnh và chết cũng mấy người. Thị giả Đăng Tịnh cũng nhiễm bệnh nặng và qua đời.

Tôi cho chú bộ đồ lam mới, tắm rửa và thay đồ khâm liệm cho. Trà tỳ xong thỉ đưa nhập tháp. Hai năm sau (tức Dân Quốc thứ 5), vào giới kỳ ở chùa Chúc Thánh, Chân Tịnh lại đến, yên tâm vì nghĩ chuyện nợ nần của mình trước đây không còn ai truy cứu nữa. Hôm ấy, truyền Tỳ kheo đàn xong, tôi về thất không lâu, thì bên nhà khách báo rằng:

-Sư Chân Tịnh bỗng lăn ra chết giấc…

Tôi đến xem, thấy Chân Tịnh nằm ngất trên đất, miệng sùi bọt mép. Mọi người xúm lại niêm Phật cho y. Lát sau, y bỗng hét to rằng:

-Hãy mau cầm tiền lại trả cho thường trụ!…

Tôi hỏi Chân Tịnh: -Thế này là sao?

Y kể: – Sư thị giả Đăng Tịnh hiện tới, bắt con phải trả tiền đã vay cho thường trụ.

Tôi hỏi: – Lấy gì làm bằng?

Chân Tịnh thưa: – Con thấy ông ta mặc bộ đồ lam mới.

Tôi bèn khuyên vong linh Đăng Tịnh:

-Thôi con hãy bỏ qua đi! Nhân quả mỗi người tự làm, tự gánh.

Tôi nói vừa dứt lời thì Chân Tịnh hoàn hồn tỉnh lại. Nhưng lại bị chứng điên dại thất thường. Ngày nọ y ra quỳ thưa nơi Quả Đường rằng:

-Con bị bệnh hành do tánh hạnh bất chánh. Đăng Tịnh có lòng tốt đòi nợ giúp chùa, còn con lại tráo trở, làm lụy khiên thường trụ chẳng an, nay xin phát lộ sám hôi, kính trình mọi người rõ để chấm dứt một lỗi nặng đã chịu trừng phạt…

Thưa xong, Chân Tịnh hết bệnh, lấy giấy tờ rồi đi.

03

DÂN QUỐC 2 – QUÍ SỬU (1913) 74 TUỔI

Chi nhánh Hội Phật Giáo Điền-Tạng1mới vừa thành lập đã gặp phiền phức. Do trong Hội khi xử lý tài sản cùng các khoản khác đều phải có chính quyền họp xử; nhưng Trưởng ban Dân chính La Dung Hiên, luôn tìm cách gây trở ngại làm khó.

Đô đốc Thái Tùng Pha hòa giải mãi mà không được. Đức Phật sống họp chúng bàn bạc rồi mời tôi tới Bắc Kinh, gặp Thống đốc Nội các là ông Hùng Hy Linh – nhờ nhiều người hỗ trợ, mới điều được La Dung Hiên về kinh, bổ nhiệm Khả Trùng làm Tuần án sứ. Tôi trở về tỉnh Điền, tận lực hộ trì gìn giữ các Phật sự trọng yếu.

DÂN QUỐC 3 – GIÁP DẦN (1914) 75 TUỔI

Đô đốc Thái Tùng Pha tỉnh Điền về kinh, Đường Minh Canh đến thay. Tôi muốn trờ về Kê Túc nghỉ hưu, nên giao việc Giáo hội cho người khác đảm nhiệm, về núi, tôi lo trùng tu chùa Hưng Vân và chùa Hạ Dương ở La Thuyên. Mọi việc xong xuôi, tôi đi các nơi giảng kinh theo lời mời của các Trưởng lão và đến Tuyết Sơn tham bái động Thái tử, qua Duy Tây xem A đôn tử, sang biên giới Tây Tạng tham quan 13 ngôi chùa của các vị Lạt-ma rồi quay về chùa ở đến hết năm.

ĐỘNG ĐẤT Ở ĐẠI LÝ

Năm này tôi đang giảng kinh tại Long Hoa Sơn, thì 4 huyện trong phủ Đại Lý phát sinh địa chấn kinh hồn, tại Đại Lý là nặng nhất: nhà cửa thành quách đều nhất loạt sụp đổ không còn gì. Chỉ có chùa viện, bảo tháp là không đổ, vẫn đứng yên như cũ. Trong cơn địa chấn đất rung chuyển nứt nẻ trầm trọng, còn phát sinh lửa dữ cháy ngùn ngụt tràn lan. Người ta tranh nhau chạy tránh nạn, thì dưới chân đất bỗng nứt ra, làm họ bị lọt xuống mắc kẹt trong đó, họ cố hết sức trèo lên, nhưng vừa ló được cái đầu thì đất liền khép lại, cắt đầu đứt lìa thân thể họ, nằm mắc lại trên đất. Cảnh tượng hãi hùng nhìn giống như người đang sống mà bị hãm trong địa ngục lửa thiêu, thảm đến mắt chẳng nỡ nhìn.

Mấy ngàn hộ dân trong thành tử nạn gần hết, sống sót rất ít. Trong đây có hai tiệm vàng: Tiệm Vạn Xương của họ Triệu và tiệm Trạm Nhiên của họ Dương – khi lửa cháy đến nhà hai gia đình này thì tự tắt. Chỗ họ ở cũng không hề bị địa chấn. Nhân khẩu mỗi nhà có mấy mươi người, nhưng tất cả đều bình an vô sự. Nguyên do là hai họ này, đời đời ăn trường trai và hay làm phước bố thí nên mới chiêu cảm được quả lành hi hữu như vậy. Ai biết chuyện cũng đều xúc động.

Đại sự năm này:

Tháng 7, Âu Châu phát sinh đại chiến, Nhật Bản tấn công Giao Châu, Thanh Đảo.

DÂN QUỐC 4 – ẤT MÃO (1915) 76 TUỔI

Mùa Xuân, giới kỳ hoàn tất.

CHUYỆN NHÀ HỌ ĐINH

Tại huyện Đặng Xuyên, có thân sĩ họ Đinh từng làm chức Hiếu Liêm triều Thanh. Ông chỉ có một cô con gái, tuổi vừa 18, chưa từng ra khỏi nhà. Một hôm, cô đột nhiên ngã lăn ra chết giấc. Tỉnh dậy, cô đổi giọng đàn ông, chỉ mặt cha mình mắng to:

– Thằng họ Đinh kia! Ta là Đổng Chiêm Bưu ở Đại Lý, Tây Xuyên đây. Mi ỷ quyền cậy thế vu oan ta làm phỉ, hại ta mất mạng, mi còn nhớ không? Ta đã đầu cáo việc này với Diêm Vương và đã được phép báo mối thù tám năm qua.

Nói xong, cô cầm dao rượt cha. Cả nhà thất kinh Ông Đinh sợ quá, phải trốn đi nơi khác lánh nạn, chẳng dám về nhà. Con quỷ ngày nào cũng đến, hễ nó nhập vào thì cô gái hình dung cử chỉ đều biến đổi, cô trở nên hung bạo dữ dằn khiến cả nhà khiếp vía, hàng xóm đều bu lại xem. Lúc đó, tôi đang ở Kê Túc Sơn, sai hai sư Tố cầm, Tố Trị đến Đặng Xuyên lo công việc.

Hai thầy đi ngang qua nhà họ Đinh, chứng kiến cảnh này liền khuyên oan hồn họ Đổng:

– Xin đừng làm thế khiến đia phương này chẳng yên!

Con quỷ bất bình nói:

– Các ông là người xuất gia, đừng có xía vào!

Hai thầy liền giải thích:

– Đành là chúng tôi cùng ông không liên quan gì, nhưng Sư phụ chúng tôi dạy: “Oán thù nên giải, không nên buộc”, thù hận càng kết càng sâu, bao giờ mới hết?

Con quỷ ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi hỏi:

– Thầy các ông là ai?

– Là Hòa thượng Hư Vân, Trụ trì chùa Chúc Thánh.

Quỷ nói:

– Tôi cũng có nghe danh, nhưng chưa được gặp Ngài, chẳng biết Ngài có chịu truyền giới cho tôi không?

– Hòa thượng là bậc đại từ đại bi, sẵn lòng độ hết những chúng sinh đau khổ, lẽ nào không chịu?

Hai vị Tăng bèn quay qua khuyên gia đình họ Đinh nên xuất tiền cầu siêu cho oan hồn họ Đổng kia. Con quỷ căm giận nói:

– Hắn làm chuyện thương thiên hại lý, tôi đếch cần tiền của hắn!

– Vậy thì để người dân địa phương này bỏ tiền ra lo cho ông cho vùng này được an nhé…

Giọng con quỷ bỗng trở nên căm phẫn:

– Thù này không trả, hận tôi khó nguôi! Đã có thù thì phải báo, cớ sao phải ngừng? Hãy để tôi đi thỉnh ý Diêm vương xem sao đã… Ngày mai, hai Thầy đến đây đợi tôi.

Nói xong con quỷ đi mất. Cô gái tỉnh dậy, tỏ vẻ e thẹn, đi vào nhà. Hôm sau, con quỉ đến rất sớm, còn hai vị Tăng đến trễ. Nó trách họ thất tín. Hai thầy giải thích do phải trở về thưa chuyện với Sư phụ. Quỷ nói:

– Tôi thưa với Đại vương rồi, Ngài bảo rằng chùa Chúc Thánh là một đạo tràng rất tốt và cho phép tôi đi, nhưng hai Thầy phải đích thân dẫn tôi tới đó.

Thế là hơn chục vị thân sĩ ở địa phương đi theo hai Thầy cùng đưa con quỉ lên chùa. Chiều tối thì đến nơi, họ trình bày mọi chuyện. Hôm sau, tôi làm lễ tụng Kinh truyền giới. Mọi việc được an từ đó. Chứng kiến sự việc này, hàng nhân sĩ ở Đặng Xuyên liền lập hội, cùng đến chùa tu học lễ sám.

Đại sự năm này:

Nhật Bản lập ra 21 điều kiện, buộc ta phải thừa nhận.

DÂN QUỐC 5 (1916) BÍNH THÌN 77 TUỔI

Từ lúc cư sĩ Cao Vạn Bang hộ tông Ngọc Phật đem đi gởi đến nay đã mấy năm., tôi nghĩ đến lúc nên đón về, bèn qua Nam Dương. Nghe người phương này, phần nhiều tin Phật, tôi bèn thân hanh đến các vùng Chưởng-đạt man, cẩm-oa, Tán-lạp-tán để tham quan. Sau đó tôi đến Ngưỡng Quang lễ tháp Đại Kim rồi đi thăm Cao cư sĩ.

Đi Tân Gia Ba

Giảng kinh tại chùa Long Hoa xong, tôi lên thuyền đi Tân Gia Ba. Thuyền đến Tân Nhai, có viên quan ngoại quốc đến nói:

– Bạn tôi là Đại Tổng thống vừa lập đế chế ở Trung Quốc, ra lệnh bắt bọn phản loạn. Bất cứ kiều dân nào đến đây đều phải khám xét kỹ rồi mới được phép đi!

Thế là mấy trăm thuyền viên được đưa vào đồn tra hỏi, riêng tôi và sáu vị Tăng thì bị giữ lại, họ gán cho cái tội là theo cách mạng và trói gô lại tất. Hết đánh đập tra khảo, thì đem chúng tôi ra phơi nắng, cấm không cho cử động, hễ nhúc nhích là bị đánh và không cho ăn uống hay đi đại tiểu tiện chi cả. Họ hành hạ suốt từ 6 giờ sáng đến 20 giờ đêm. Lúc này, các vị đệ tử qui y với tôi là Hồng Thạnh Tường, Đồng Lão… hay tin, liền đến bót bảo lãnh. Phải nộp tiền thế thân cho mỗi người năm ngàn đồng, họ mới ký giấy thả. Tôi đến tiệm Thạnh Tường ở qua năm và lo việc chở Ngọc Phật về.

DÂN QUỐC 6 ĐINH TỴ (1917) 78 TUỔI

Mùa Xuân, từ Đình Quan Âm, chúng tôi bắt đầu chở Ngọc Phật đi. Thuê tám người khiêng, giao hẹn rõ ràng là khi tượng đến núi Kê Túc, thì thanh toán hết phí tổn. Lộ trình này phải đi qua một đoạn đường gập ghềnh cheo leo trên núi, tốn mất mấy mươi ngày. Đường này chưa ai qua. Ngày nọ, lúc đến núi Dã Nhơn, những người khiêng thuê nghi là trong tượng Phật có giấu tiền vàng chi đó, bèn hạ tượng xuống đất, nói là khiêng không nổi nữa, ý họ muốn tăng thù lao lên gấp đôi. Tôi an ủi, năn nỉ, khuyên họ hãy cố lên. Song họ trở mặt hiện vẻ rất hung tợn, tình thế thật bất lợi. Tôi biết không thể cãi lý với họ, chợt thấy ven đường có tảng đá to, nặng gấp hai ba lần tượng Phật (độ mấy trăm cân), tôi liền bảo họ:

– Tảng đá này so với tượng Phật, bên nào nặng hơn?

Họ đáp:

– Đá nặng gấp mấy lần!.. Tôi bèn đưa hai tay nhấc bổng hòn đá lên khỏi mặt đất. Bọn họ le lưỡi, cảm phục. Bấy giờ họ mới chuyển sang hiền hòa, mềm mỏng, xá tôi và khen:

– Hòa thượng quả là Phật sống!

Họ chẳng còn đòi hỏi gì nữa. Lẳng lặng khiên Ngọc Phật đến núi.

Tôi cũng thưởng cho họ rất trọng hậu. Tôi thầm nghĩ sức mình đâu có mạnh dữ vậy? In như là có thần trợ giúp.

Sau đó, tôi đến các chùa Bảo Sơn, Đằng Xung giảng Kinh.

DÂN QUỐC 7 MẬU NGỌ (1918) 79 TUỔI

Đô đốc Đường Kế Nghiêu phái người mang thư đến, cùng Tri sự huyện Tân Xuyên vào núi mời thỉnh mấy lần, bất đắc dĩ tôi phải đến Côn Minh. Lúc này đường đi khó khăn, lắm tai nhiều nạn. Huyện có cho xe và binh lính đến rước để hộ tống tôi đi, nhưng tôi từ chối hết, chỉ mang theo một cái nón, một dao cạo, một bộ cà-sa, rồi cùng đồ đệ Tu Viên lội bộ lên đường.

Ông là người ở đâu?

Đến giữa đuờng Sở Hùng, thì gặp bọn phỉ. Họ khám xét thấy phong thư của ông Đường gởi tôi nên tức giận nạt nộ giương oai, khảo, đánh. Tôi nói:

– Đừng đánh, hãy cho tôi gặp Tổng tư lệnh của các ông.

Thế là các thủ lãnh như Dương Thiên Phước, Ngô Học Hiển bước ra, quát:

– Ông là người ở đâu?

Tôi đáp:

– Là Sư ở núi Kê Túc.

– Tên gì?

– Hư Vân.

– Đi lên tỉnh làm gì?

– Làm Phật sự.

– Phật sự là cái quái gì?

– Cầu tiêu tai nạn cho nhân dân.

Bọn họ nạt:

– Đường Kế Nghiêu là thổ phỉ, sao ông lại giúp hắn? Hắn là kẻ xấu, ông mà chơi với hắn thì ông cũng là kẻ xấu luôn!

– Các ông kết luận như vậy, thật là khó nói.

– Tai sao khó nói?

– Nếu nói về mặt tốt thì ai cũng tốt, nói về mặt xấu thì ai cũng xấu.

– Vậy là ý gì?

– Nghĩa là các ông cùng với họ Đường, nếu ai cũng một lòng vì dân vì nước, lo tạo phúc cho nước, cho muôn dân, bá tánh… Thậm chí cả đến thuộc hạ của các ông cũng làm được vậy thì chẳng phải là ai cũng tốt hết sao? Còn nếu nói về xấu? – Các ông bảo họ Đường là xấu, họ Đường cũng nói các ông không tốt! Ai cũng mang thành kiến, khư khư giữ cái chấp riêng rồi kình chống nhau như nước với lửa, để xảy ra họa binh đao, làm khổ đến dân chúng. Như vậy thì chẳng phải là ai cũng xấu hết ư? Còn dân chúng, hễ theo bên này thì bị mắng là thổ phỉ, theo bên kia thì bị gán là giặc, chẳng phải là quá tội nghiệp cho họ sao?…

Cả bọn nghe nói, thảy đều bật cười. Ngô Học Hiển bảo:

– Thầy phân tích rất đúng, vậy chúng tôi phải làm sao mới ổn?

– Theo tôi, các ông không nên gây chiến mà hãy chấp nhận chiêu an.

– Làm vậy khác nào kêu chúng tôi đi đầu hàng?

– Không phải thế! Tôi nói: – “Chiêu an” – Là vì các ông đều là những bậc hiền tài – Chiêu: – tức là mời các bậc hiền sĩ của nước nhà góp tài góp sức giúp ổn định địa phương, an nước, an dân. Chỉ cẩn các ông đừng nghĩ đến lợi riêng, đoàn kết giúp nước, vậy chẳng phải là rất tốt hay sao?

– Thế thì chúng tôi phải đi đến đâu để tiến hành việc này?

– Đi tới chỗ ông Đường đế thu xếp.

Ngô phản đối:

– Không! Không được, ông Đường đã giết và bắt giam rất nhiều người của tôi. Tôi đang muốn tìm ông ta báo thù, giờ bảo phải hàng ông ta ư? Đừng hòng!

– Tiên sinh chớ có hiểu lầm, tôi nói đến ông Đường thu xếp là vì sao?- Vì ông ta hiện là quan xử lý mọi việc của Trung ương, nắm quyền hành chính trong tay. Tương lai các ông cũng là quan Trung ương. Ông Đường đã giết nhiều người của ông, thì chuyến đi làm Phật sự lần này của tôi mục đích là để cầu siêu cho các binh sĩ trận vong. Thậm chí cả những người bị bắt giam, lần này đến tôi sẽ xin ông ta đại xá, phóng thích hết. Như vậy thì người của các ông cũng được thả. Nếu các ông không nghe lời tôi khuyên, chuyện chiến chinh xưa nay thắng bại rất khó định. Các ông và ông Đường đều có lực lượng và binh quyền riêng, nhưng xét về thực lực các ông khó thể so bì với ông ta. Bởi ông Đường có người, có tài sản, có quân lính bổ sung và có hậu thuẩn từ chính phủ Trung ương. Do vậy ông ta phải mạnh hơn các ông nhiều. Thật ra hôm nay tôi không hề có ý kiếm các ông để chiêu an. Chỉ là tình cờ đi ngang qua đây, gặp nhau thế này cũng là có duyên với nhau. Nếu các ông chịu vì nước ngưng đấu tranh để cho nhân dân sống an lạc, thì kẻ tu hành này không tiếc lời mà dốc sức thương thuyết giúp cho vậy.

Hai ông Dương và Ngô nghe tôi phân tích, cảm động lắm, thảy đều đề nghị tôi làm đại biểu giùm.

Tôi nói:

– Đại biểu thì tôi chẳng dám. Các ông cứ đưa điều kiện của mình ra, tôi sẽ nói với ông Đường.

Sau một hồi thương nghị bàn bạc họ đưa ra sáu điều kiện:

  1. Trước khi chiêu an, phải thả hết những người của chúng tôi.
  2. Không được bắt chúng tôi giải tán binh lính.
  3. Không được bãi bỏ chức quyền chúng tôi.
  4. Đội ngũ của chúng tôi phải do chúng tôi quản lý.
  5. Việc hai bên giao chiến trong quá khứ, không được truy cứu.
  6. Sau khi chiêu an, binh lính hai bên phải được đãi ngộ bình đẳng.

Tôi nói:

– Xem các điều kiện này, tôi nghĩ không thành vấn đề. Sau khi thương lượng với ông Đường xong, sẽ có tin cho các ông.

Ngô nói:

– Thật làm phiền Sư phụ quá. Nếu mọi việc tốt đẹp, chúng tôi mang ơn Ngài lắm.

– Không có chi, tôi cùng thuận đường đến đó mà.

Dương, Ngô đối với tôi rất ưu ái, Tối hôm ấy, họ cùng bàn thêm nhiều việc khác, tỏ vẻ rất hoan hỷ và khẩn khoản mời tôi lưu lại doanh trại, nhưng tôi do công việc bề bộn nên sáng hôm sau đã vội cáo từ lên đường. Họ dọn điểm tâm mời tôi xong thì lo chuẩn bị xe ngựa, lộ phí, vật thực và phái người hộ tống tôi, nhưng tôi từ chối hết, chỉ nhận thực phẩm đi đường.

Xin Bồ-tát tha thứ cho con

Ra khỏi doanh trại chừng 250m thì thấy nhiều người quỳ gối trên đường hướng về tôi lạy như tế sao. Nhìn kỹ thì là những binh lính đánh tôi ngày hôm qua, họ run sợ, rối rít nói:

– Xin Bồ-tát tha thứ cho con.

Tôi bèn an ủi, khuyên họ nên làm lành lánh dữ. Họ đều cảm động rơi lệ.

Tôi đến Côn Minh, Đường phái người đón tiếp nồng hậu. Tôi ở chùa Viên Thông, đến chiều mới gặp nhau.

Đường nói:

– Tôi và Ngài đã mấy năm không gặp. Bà nội, phụ thân, xá đệ, cùng các người trong họ… đều lần lượt qua đời, lòng tôi thật bất an. Lại thêm bọn phỉ quấy rối vùng biên địa, dân không biết nương vào đâu mà sống. Tướng sĩ thương vong, cô hồn vất vưởng. Vì vậy, tôi muôn tổ chức ba việc sau:

  1. Lập một đạo tràng lớn, cầu tiêu tai giải nạn, siêu độ cho các vong linh.
  2. Xây dựng Đại Tùng Lâm tại chùa Viên Thông để hoằng dương Phật pháp.
  3. Lập một Trường Đại Học thật tốt để giáo dục thanh niên.

Việc thứ ba tôi đã có người lo, song hai việc đầu thì ngoài Ngài ra, khó ai đảm đương.

Tôi nói:

– Ông có chí nguyện rộng lớn như thế thật là hiếm có trên đời, phải là Bồ-tát mới phát tâm được như thế. Kiến thức của tôi cạn cợt, không đủ sức để lập Tùng lâm. Trong nước ta hiện có nhiều vị cao đức. Chùa Viên Thông không phải là đất để xây dựng Tùng lâm, vì chúng trụ ở đây không hơn trăm vị. Muốn làm Phật sự cần phải khảo sát kỹ, vì thời gian không có nhiều, không nên kéo dài gây lắm mệt nhọc.

Đường thưa:

– Ngài nói địa thế chùa Viên Thông không hợp lập Tùng lâm, thật là nhìn xa trông rộng, vậy thì để sau hẵng tính. Còn việc lập đàn cầu tiêu tai sẽ phải tổ chức như thế nào?

Tôi nói:

– Tâm Phật đồng một thể, cảm ứng giao nhau. Ông tổ chức việc này là vì nước vì dân, cõi âm lẫn dương đều được lợi ích. Theo thiển kiến của tôi thì trước khi làm Phật sự, xin ông hãy thực hiện ba điều:

  1. Ngày bắt đầu cử hành Đại lễ, (Khai đạo tràng tụng Kinh) hãy ban hành lệnh cấm sát sinh.
  2. Ân xá tù nhân.
  3. Chẩn tế cho kẻ nghèo.

Đường nói:

– Điều một và ba, tôi làm được, nhưng riêng khoản hai thì thuộc bên Tư pháp Trung ương, tôi không thể tự quyết định.

– Quốc gia nhiều việc, Trung ương đâu thể xem xét hết, ông chỉ cần bàn bạc với Ty Pháp Lý là có thể tiến hành, để đón thiên ân.

Đường bằng lòng. Tôi nói:

– Tôi còn một việc muốn báo cáo. Rồi tôi đem chuyện gặp Dương Thiên Phước, Ngô Học Hiển trên đường, thuật lại tỉ mỉ và khuyên Đường nên nhân dịp đại xá tù nhân này mà phóng thích những người của họ để tiện bề cảm hóa. Đường nghe nói, hoan hỷ lắm, lập tức tiến hành việc phóng thích và chiêu an.

Tôi ở lại Viên Thông đến hết năm.

Năm này:

Châu Âu kết thúc thế chiến thứ nhất.

DÂN QUỐC 8 – KỶ MÙI (1919) 80 TUỔI

Mùa xuân, tôi lập đạo tràng Thủy Lục tại Đền Trung Liệt, Côn Minh. Khi Pháp hội bắt đầu khai lễ, Đường phóng thích hết tù nhân và cấm sát sinh. Trong lúc mở pháp hội, Đường phái người đến thương lượng việc chiêu an cùng Ngô, Dương. Phong cho họ làm Đại đội trưởng. Từ đó địa phương này được an ổn, hai vị Ngô, Dương trước sau không hề đổi lòng.

Nến thắp trong đạo tràng đều nở hoa

Chuyện lạ lùng nhất là, khi pháp hôi Tiêu Tai vừa khai, tất cả ngọn nến thắp trong đạo tràng đều nở hoa, giống như hình hoa sen, sáng rỡ, nhìn rất đẹp mắt. Thiện nam tín nữ vây quanh chiêm ngưỡng, thảy đều cảm động tán thán. Trải qua 49 ngày, pháp hội kết thúc. Lúc làm lễ tiễn đưa chư Thánh, thì bỗng thấy tràng phan bảo cái hiện hình giữa không trung, bay phất phới trong mây. Toàn thành đều chứng kiến cảnh này, đồng xúm nhau lễ tạ. Mọi việc hoàn tất, Đường mời tôi về tư thất, tụng Kinh cầu siêu cho thân quyến ông. Tận mắt thấy điềm lành, cả nhà phát đại tín tâm, đồng xin quy y. Tôi ở lại Côn Minh hết mùa đông.

DÂN QUỐC 9 – CANH THÂN (1920) 81 TUỔI

Sang xuân, ông Đường mời tôi lập Đạo Tràng Thủy Lục. Công việc hoàn tất, tôi tiếp tục giảng Kinh tại Tây Sơn Hoa Đình Tự, một ngôi chùa cổ ở Côn Minh. Nơi đây phong cảnh rất đẹp, nhưng Tăng không thể trụ trì, ngày một hoang phế. Gần đây, có người định đem bán cho người Âu làm câu lạc bộ, chính phủ địa phương đã phê chuẩn. Tôi thấy tiếc nên ngỏ ý với ông Đường, xin ông bảo tồn ngôi danh lam thắng cảnh này, Đường nghe lời tôi, âm thầm bàn tính với Vương Cửu Linh và Trương Chuyết Tiên, đích thân viết hồng thiếp, thiết trai cung thỉnh, mời tôi đến ở và trùng hưng chùa Hoa Đình. Ông nài thỉnh ngót ba lần, tôi mới nhận.

Cuối năm, Đường từ bỏ nhiệm sở sang Hương Cảng.

Phần phụ ghi của Sầm Học Lữ:

Hãy từ bỏ hư danh để bảo tồn thực lực

Mùa thu năm nay, tướng quân tỉnh Điền là Cố Phẩm Trân âm mưu đảo chánh Đường Kế Nghiêu để đoạt quyền chấp chính tỉnh Điền. Đường hiện nắm trong tay hơn 20 đoàn quân dự bị hùng mạnh, nhưng vì tin kính Sư nên trong đêm khuya ông bí mật đến chùa bái kiến mật thỉnh ý Ngài. Sư dạy:

– Ông tuy được lòng dân nhưng chưa thu phục được hết lòng tướng sĩ tỉnh Điền. Nếu để họa binh đao xảy ra, e rằng cả hai bên đều tổn hại. Chi bằng ông hãy từ bỏ hư danh để bảo tồn thực lực, đợi duyên ngày sau.

Đường vâng lời, liền từ chức nhường cho Cố Phẩm Trân, ngay trong đêm ba mươi tháng chạp Đường qua An Nam rồi sang Hương Cảng.

(Việc này, Sư đã thuật lại trong Niên Phổ nhưng không kể rõ chi tiết. Cách đây mười năm, lúc hầu cận bên Sư, biên giả từng được nghe Ngài kể lại nên ghi bổ sung thêm vào đây).

CẶP NGỖNG Ở CÔN MINH

Năm nay, cư sĩ Trương Chuyết Tiên đem đến một cặp ngỗng phóng sinh ở chùa Vân Thê, Côn Minh; thỉnh tôi quy y cho chúng. Khi làm lễ, cặp ngỗng đều cúi đầu lắng nghe. Thuyết giới xong, chúng ngẩng đầu lên như vui mừng. Từ đó, chúng thường theo người lên điện Phật. Thấy chúng Tăng tụng niệm thì đứng nhìn, lắng nghe, khi người đi nhiễu Phật, chúng cũng làm theo. Lâu ngày, không thay đổi, ai thấy cũng mến. Được ba năm, một hôm, con ngỗng mái đứng trước cửa chánh điện, đi nhiễu ba vòng, ngẩng đầu lên nhìn Phật, rồi thoát xác, lìa trần. Hình dạng cánh lông vẫn không đổi sắc, nó được bỏ vào hộp cây đem chôn. Con ngỗng trống còn lại không ngừng cất giọng bi thương, ý chừng rất nhớ bạn, nó bỏ ăn ngót mấy ngày, rồi cũng đến trước điện, đứng nhìn Phật thật lâu, giương cánh vỗ mấy cái rồi mẫt. Nó cũng được bỏ vào hộp đem chôn chung một huyệt với ngỗng mái.

Ông Trương bèn làm bài văn ghi chuyện vãng sinh của đôi ngỗng chùa Vân Thê:

“Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể làm Phật. Do lầm mê, quên bản tánh, tạo nghiệp sai lầm nên mới sinh vào đường ác, luân hồi trong ba cõi không có lúc dừng. Chúng ta may mắn được sinh vào cõi người, song từ nguồn cội so với mọi loài chúng sanh vốn là bình đẳng. Vì vậy không thể nhìn vào hình dạng khác nhau bên ngoài mà phân biệt. Như cặp ngỗng kia. miệng không ăn mặn, đi có trật tự, sống thủy chung với một bạn đời. Đại sư Liên Trì gọi chúng là đạo nhân, cũng là một loài chim khác thường vậy.

Chuyết Tiên tôi vốn thích nuôi ngỗng, nhưng vì không có đất, nên mang chúng đến chùa Văn Thê. Chùa có nuôi đàn gà phóng sinh, đa số đều bị chồn cáo bắt ăn thịt. Nhờ có đôi ngỗng, nạn chồn cáo giảm hẳn đi. Ngoài cửa chùa có đào ao phóng sinh, tôi thấy đôi ngồng hằng ngày bơi dạo trong ao, tối đến thì đi rảo canh ba cửa, rất đắc lực.

Mùa hạ năm nay, tôi đến chùa không thấy ngỗng, hỏi thăm Hòa thượng Hư Vân, Ngài bảo:

– Công đức phóng sinh của cư sĩ không thể nghĩ bàn. Tháng trước, thời khóa sớm tối nào cũng thấy đôi ngỗng đứng sửng trước cửa diện, ngẩng đầu chiêm ngưỡng Phật không chớp mắt. Khi nghe chúng Tăng niệm Phật thì ngỗng giương cánh kêu to, vẻ rất hoan hỷ. Một hôm, con ngỗng mái đứng kêu to vài tiếng rồi nhắm mắt. Đại chúng bèn chôn nó ngoài chùa. Con ngỗng trống bỏ ăn hết mấy bữa, cũng không xuống hồ bơi nữa, tiếng kêu buồn bã ai oán. vẻ rất thống khổ, nhưng mỗi ngày nó vẫn lên điện chiêm ngưỡng Phật như trước. Sư Duy na thấy nó sắc nhợt nhạt, hình dung tiều tụy, không còn đẹp như trước, bèn đánh chuông dạy: “Con buồn vì mất bạn à? Đã biết chiêm ngưỡng Phật thì nên niệm Phật A Di Đà cầu sinh về Cực Lạc, dừng tham tiếc cái thân khổ não này, đại chúng sẽ giúp con niệm, nào: “Nam Mô A Di Dà Phật ”, con cần phải tịnh tâm nghe, tưởng nhớ đến. Cứ mỗi tiếng chuông là con niệm một tiếng Phật nhé”. Niệm được khoảng mấy chục tiếng thì ngỗng cúi thấp đầu xá Phật, xong đứng dậy đi nhiễu ba vòng, giương cánh vỗ một cái rồi xếp cánh co chân, nghiễm nhiên mà mất. Con ngỗng này nhờ duyên lành mà thoát được huyễn thân trong chớp mắt, trong khoảng một niệm được liễu sinh thoát tử, chẳng hổ danh Đạo nhân. Trường hợp này đâu thể nói chúng là loài chim tầm thường?

Thế nên, mang thân người, được nghe danh Phật và tin hiểu pháp môn Tịnh độ, niệm Phật nhiều năm. Quang âm thấm thoát, đến lúc mạng chung có thể giữ tâm không điên dảo, ý chẳng tham mê, nhất niệm chuyên tâm, công phu đắc thành…

Phải biết vãng sinh Tây phương là việc không dễ. Huống chi, loài ngỗng không có lưỡi để nói như chim Anh Vũ, chẳng biết ngày thường trong tâm chúng có siêng niệm Phật hay chăng? Cái chết của con ngỗng mái, đại chúng không để ý đến những thay đổi. Nhưng đến phiên con ngỗng trống, nghe nó niệm Phật mấy mươi tiếng, đi nhiễu ba vòng, vỗ cánh đứng yên mà mất. Mới biết ngỗng đến chùa ở được ba năm, sớm tối dược nghe tụng kinh niệm Phật, chắc tính giác đã được khai mở, cho nên chỉ trong hơn một tháng, ngẩng đầu quán Phật, nhờ nhất tâm quán tưởng chiêm ngưỡng tượng Phật, nương Phật lực mà được giải thoát.

Tôi thẹn mình không bằng chúng, chẳng thể im lặng bỏ qua, xin làm bài minh ghi vào đá để khuyến khích người sau.

Năm Canh Thân, Cư sĩ Hoằng Tây Trương Chuyết Tiên (Trương Phác) soạn.

DÂN QUỐC 10 TÂN HỢl (1921) 82 TUỔI

Từ khi Cố Phẩm Trân lên làm Đô đốc tỉnh Điền vào đầu xuân này, thì tháng 2 trời làm mưa liên miên không dứt, nước ngập đến nỗi có thể bơi thuyền trong thành. Mỗi ngày, ở trên thành, binh lính đều chỉa súng Đại bác bắn ầm ầm lên trời hòng xua tan mây mù nhưng vô hiệu. Từ tháng 7 trở về sau, trời không còn mưa dầm nữa mà chuyển sang hạn hán ngót mấy tháng ròng. Ngay cả vào mùa đông mà lòng sông cũng bị khô cạn, tình hình thiếu nước kiểu này, xưa nay chưa từng thấy xảy ra. Thêm nữa, vào tiết thu mà trời lại nóng bức đến nỗi dịch đau yết hầu bộc phát, làm chết mấy ngàn người. Lúc này tôi mới đến chùa Hoa Đình ở chung với Cụ Hành2 Thượng nhơn. Gặp phải năm xấu như thế này, mọi việc đành phải tạm hoãn lại.

HÓA ĐỘ GIA ĐÌNH HỌ TÔN

Một sáng nọ, chúng tôi cùng đi vào thành, quá trưa mới quay về. Khi ngồi nghỉ mát dưới một cội cây trên đường, thì tôi nhặt được một cái bao, mở ra xem thấy bên trong có các vật trang sức bằng vàng, ngọc như: vòng đeo tay, trâm cài tóc và tám ngàn đồng tiền Vân Nam và hơn vạn quan tiền Pháp. Kiểm tra xong, tôi gói lại, đợi ngươi đến hỏi. Trời sụp tối, thấy đường về còn quá xa nên tôi đành phải đem cái túi ấy theo, định sáng mai sẽ đăng báo tìm khổ chủ. Gần đến chân núi, bỗng thấy một cô gái nhảy xuống sông, chúng tôi tức tốc nhảy theo. Cô gái mặc dù đang chìm vẫn không đồng ý để chúng tôi cứu, chúng tối phải dừng hết sức mới lôi được cô lên bờ. Nhưng cô cứ đòi chết mãi, chúng tôi ép cô phải đi về chùa vì trời đã tối lắm rồi. Về chùa, cho cô thay đổi y phục và ăn uống, nhưng cô không ăn. Dỗ dành, an ủi mãi, cô mới khai mình họ Châu, người Trường Sa, sinh trưởng ở Vân Nam.

Năm 18 tuổi, cha mẹ cô mở tiệm thuốc Phúc Xuân trong thành, cô là con một. Khi đó có ông Sư Đoàn Trưởng họ Tôn tìm đến nhà cầu hôn, bảo là mình chưa có vợ; cha mẹ cô tin, chịu gả. Đám cưới xong, mới hay ông Tôn đã có vợ rồi, cô biết bị lừa nhưng đành chịu vì chẳng biết làm sao hơn. Người vợ cả của ông Tôn tính rất hung ác, thường tìm đến đánh đập cô tàn nhẫn. Cha mẹ ông Tôn có can thiệp mà không được. Song thân cô thì quá sợ thế lực của ông Tôn, khiến cô lâm vào cảnh muốn sống chẳng được, muốn chết không xong. Do vậy, cô mới đánh liều gom góp ít tư trang tiền của lẻn trốn đi, định tới núi Kê Túc tìm Hòa thượng Hư Vân xin xuất gia. Cô không rành đường nên đi ròng rã mất hai ngày trời, lúc nào cũng phập phồng lo, sợ bị người đuổi theo. Không may, cô làm mất túi tiền. Bây giờ thì, không chết cũng không được.

Tôi hỏi cô về những đồ vật bị mất, cô tả đúng y. Tôi an ủi cô rồi nhờ pháp sư giảng về đại ý của việc qui y Phật cho cô nghe. Qua ngày sau, tôi báo tin cho hai họ Châu, Tôn hay. Cha mẹ chồng, ông Tôn Đoàn trưởng, bà vợ cả, song thân cô, cùng họ hàng thân tộc kéo đến mấy chục người, vào chùa phân trần, giải thích… Tôi thuyết pháp cho họ nghe. Người chồng và bà vợ cả quỳ trước điện Phật, ăn năn sám hối lỗi xưa, cùng ôm nhau mà khóc, ai trông thấy cũng xúc động. Họ ở chùa ba hôm, nam nữ già trẻ mấy chục người đều phát tâm quy y, xin thọ Ngũ giới, rồi cáo từ.

DÂN QUỐC 11 (1922) NHÂM TUẤT – 83 TUỔI

Năm này, khởi công trùng tu chùa Hoa Đình (Vân Thê), trên bờ Hồ Tây, Côn Minh, thuộc vùng núi Bích Kê.

Nguyên Thái tử thứ hai của vua A Dục đã đến nơi này, nhìn thấy một bầy chim Phượng màu xanh biếc dừng lại đây tu và thành đạo, hiệu là Thần Bích Kê, do đó mà núi mang tên này. Các đỉnh núi dựng đứng như bình phong, chùa tên Hoa Đình. Nguyên trước đây do Thiền sư Huyền Phong (đắc pháp ở Tây Thiên Mục), cùng Quốc sư Trung Phong Bổn đến nơi này khai sơn, đặt tên là Viên Giác, người sau lại gọi theo tên núi, nên đổi thành Hoa Đình.

VÂN THÊ

Mây năm trước, vùng này định đem bán cho người nước ngoài, tôi thấy tiếc nên nói với ông Đường, ông bèn mua lại và mời tôi đến trụ trì để lo việc trùng tu. Lúc đào đất được một tấm bia cổ có tên Vân Thê3, phần niên đại thì không đọc được, về sau, tôi mang tấm bia, khẳm vào tháp Hải Hội.

Thái sử Trần Du Phủ đem hoa viên của mình hiến cho Trường Nông Lâm đổi lấy nền đất của chùa Thắng Nhân, lập thành Hạ viện chùa Vân Thê. Tôi xây điện đường, liêu phòng và sửa chùa Thái Hoa, chùa Tùng Ân, cất chùa Chiêu Đề ở dưới chân núi, đổi tên làng thành là Chiêu Đề Thôn.

Xử lý của rơi

Khi đi tìm gỗ trong rừng sâu, tôi nhặt được một gói đồ trong có tiền vàng, tiền bạc trị giá trên hai trăm ngàn đồng, bèn đem cho Viện Chẩn Tế của chính phủ. Mọi người bàn là chùa đang nghèo sao không sung vào của thường trụ? Tôi nói:

– Phật dạy, tu sĩ không được nhặt của quý, nay đã nhặt của rơi, tức là đã phạm giới, đem về chùa càng thêm trái. Hàng cư sĩ còn xả bỏ tài vật để gieo trồng phước điền, Tăng chúng thiếu lương thực thì có thể đi khuyến hóa, còn nhặt của rơi mà đem về chùa thì bần đạo không dám.

Đại chúng khen phải, đồng ý đem cho Viện Chẩn Tế.

Lập đàn cầu mưa

Tỉnh Điền bị hạn hán liên tiếp mấy năm liền, nhân dân bệnh khổ, dịch đau yết hầu hoành hành, người chết vô số. Bấy giờ từ tướng lãnh đến hàng sĩ dân, ai nấy đều nhớ đến công đức của Tỉnh trưởng Đường Kế Nghiêu, họ họp nhau bàn bạc và thỉnh cầu ông về nhậm chức lại. Thế là ông Đường về phục chức. Ông đến thăm chùa, thỉnh tôi lập đàn cầu mưa. Tôi cầu ba ngày, trời đổ mưa tầm tã nhưng bệnh đau yết hầu vẫn chưa hết. Ông Đường nói:

– Con nghe nói tuyết có thể làm dứt bệnh đau yết hầu, nay trời đã cuối xuân, làm sao có tuyết được?

Tôi bảo:

– Tôi sẽ lập đàn tràng, còn ông phải hết lòng cầu khẩn.

Đuờng bèn trai giới, tôi lễ tụng. Hơn một ngày sau, tuyết rơi dày hơn 30cm, dịch đau yết hầu liền chấm dứt. Mọi người đều tán thán Phật pháp mầu nhiệm khó nghĩ khó bàn.

DÂN QUỐC 12 (1923) QUÍ HỢl – 84 TUỔI

Năm này, khởi công sửa tháp Hải Hội cho bảy chúng. Khi tiến hành việc kiến trúc, đào đất sâu hơn một trượng thì phát hiện một quan tài, trên đó viết: “Lý Thái Phu Nhân ở đất Phan Dương, năm Gia Tĩnh thứ 4 (1525)” Mở nắp xem thấy thân thể, mặt mũi như còn sống. Đem thiêu thấy trong lửa hiện hình hoa sen. Tôi cho nhập tháp dành cho cư sĩ nữ.

Bên hữu chùa, có nhiều ngôi mộ cổ, nằm lộn xộn ngổn ngang. Khi tháp Hải Hội hoàn thành, tôi bốc cốt cho nhập tháp hết. Trong đây, có một ngôi mộ, bia ghi thế này:

TỲ KHEO ĐẠO MINH

“Năm Đạo Quang (1821), Tỳ kheo Đạo Minh do bị liệt chân từ thuở bé nên cha mẹ đem bỏ vào chùa. Sau khi thọ giới Cụ túc, Sư phát tâm lạy Đại Bi Sám Pháp, trì Thánh hiệu Đức Quán Thê Âm. Một đêm, Sư mộng thấy Bồ tát Quán Thê Âm bảo: – “Nước đã có sẵn, hãy đi tắm”. Sư tắm xong, không thấy Bồ tát nữa nhưng hai chân cảm thấy nhẹ khỏe. Sáng dậy, có thể bước xuống, đi bộ như người thường. Từ đó, trí huệ Sư mỗi ngày một sáng. Nhân đây mà suốt đời Sư luôn trì Thánh hiệu của Bồ tát Quán Thế Âm”…

(Nhìn quan tài Sư bị mối ăn, tạo thành hình một cái tháp vuông nhỏ 7 tầng, đủ biết đây là một vị Trụ trì xứng đáng. Lại đào được một hũ xương, có màu hoàng kim, xương dầy chừng một tấc, bộ xương đầu cân nặng 7 cân rưỡi. Niên đại không rõ).

Phụ ghi: SỐNG THIỆN ĐƯỢC PHƯỚC

Hồ Tây ở Vân Nam, Côn Minh, nhằm ngày lễ hội nên rất tưng bừng náo nhiệt, người du ngoạn nườm nượp. Năm Dân Quốc thứ 12, có gia đình Trần Tiểu Phủ cùng quyến thuộc đi trẩy hội, cả thảy 30 người đồng mua vé lên thuyền đi chơi. Mọi người đều đã lên thuyền hết, chỉ duy nhất thằng cháu nội mới sáu tuổi, là lộ vẻ rất kinh hoàng, khóc gào ầm ỹ, nó nhất định không lên thuyền. Trần phu nhân kéo thế nào nó cũng kiên quyễt trì lại, không chịu đi. Do rất cưng yêu thằng bé nên cả nhà đều bước ra khỏi thuyền, thôi không đi nữa. Trong lúc thằng bé đang khóc lóc làm ầm thì chiếc thuyền kia xuât phát. Mới chạy ra giữa sông được 250m thì thuyền quay mòng mòng, lật úp, rồi chìm lỉm, khiến tất cả hành khách trên thuyền đều bị chết đuối. Họ Trần lúc này mới hoàn hồn, hỏi thằng bé duyên cớ nào không chịu lên thuyền? Nó đáp:

– Con thấy bên đầu thuyền có một ông kẹ to lớn, mặt xanh nanh nhọn, cầm chày Kim cang, tướng mạo thật hung dữ cứ gầm gừ nhát con. Vì vậy mà con không đi.

Toàn gia họ Trần nhờ vậy mà thoát chết. Xưa nay gia tộc họ vốn hay làm việc phúc đức, giờ lại càng thêm kính tin Phật pháp. Lúc chùa Thắng Nhân ở Côn Minh khởi sự xây cất, thì họ Trần hết lòng tài trợ, góp của góp sức rất nhiều.

DÂN QUỐC 13 (1924) GIÁP TÝ 85 TUỔI

Năm này, tu bổ các tháp của chư Tổ toàn núi cùng tháp Thất Phật, gồm 60 ngôi. Tu sửa tượng Phật toàn chùa, gồm 500 tượng La Hán, sửa chánh điện chùa Thắng Nhân, đúc tượng Tam Tôn Phật lớn bằng đồng, sửa Điện Tây Phương, đắp tượng Tam Thánh.

Mùa xuân, sau Giới kỳ, Thượng nhơn Cụ Hành tự thiêu, tôi vì ông làm bài ký.

SƯ CỤ HÀNH

Sư tên Nhật Biện, tự Cụ Hành, ở đất Hội Lý, mồ côi cha mẹ, phải ở rể nhà họ Tăng từ bé. Lớn lên kết hôn với con gái nhà này, sinh được hai trai, sống rất nghèo khổ. Khi tôi đến Kê Sơn, toàn gia quyến Sư gồm 8 người đều đến chùa xin làm công quả.

Năm Tuyên Thông thứ nhất (1909), Kỷ Dậu, khi rước Tạng Kinh về núi, có mở đàn truyền giới, Sư 20 tuổi, dẫn 8 người trong gia đình đến xin xuất 1 gia. Năm 21 tuổi, Sư vẫn không biết chữ, lại bị ị lãng tai, hình dung xấu xí, ngày thì lo việc đồng áng, lao động cực khổ, đêm đến lúc thúc lễ lạy, trì niệm Thánh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm. Lâu ngày, tự thuộc kinh bổn, thời khóa tụng niệm không cần người dạy, Sư rất siêng năng tinh tấn. Năm Dân Quôc thứ 4 (1915) At Mão, Sư xin phép đi các nơi tham học. Đến năm Dân Quốc thứ 9 (1920), tói ở chùa Vân Thê, Côn Minh, Sư đến phụ giúp, giữ việc trồng rau, hay lên chùa tụng niệm. Những lúc rỗi rảnh thì cắt may hoặc đan các vật dụng bằng tre, chẳng nề lao khổ. Mỗi ngày Sư trồng rau làm vườn, rau dư thì mang biếu cho người để kết duyên, Sư không chứa đồ vật dư, cũng không nói nhiều.

Khi Sư trồng rau ở Hạ viện chùa Thắng Nhân, tôi thấy Sư mật hạnh hiếm có, nên mời làm Tôn chứng trong đàn giới này. Truyền giới Tỳ kheo xong, Sư xin xuống Hạ viện ở.

Ngày 29 tháng 3, sau giờ Tham Vấn trưa, Sư ra phía sau chánh điện chùa Thắng Nhân, quét dọn một khoảng đất bằng, lấy vài bó rơm, đắp Cà-sa, ngồi kiết-già, tay trái cầm khánh, tay phải cầm dùi mõ, mặt hướng về phía Tây, niệm Phật rồi tự châm lửa. Trong chùa có vài mươi người nhưng không ai hay. Người ở ngoài chùa, thấy phía bên trong có ánh lửa lớn. Mãi đến khi tìm kiếm mà chẳng gặp Sư, mọi người mới đi ra phía sau Đại Điện, thì thấy Sư đang ngồi kiết-già bất động giữa đám tro nóng, y vật vẫn như cũ, chỉ có cái mõ và cái dùi đã thành tro. Người ở Hạ viện đến chỗ tôi báo tin, hôm ấy nhằm ngày mùng 8 (là ngày Bồ Tát giới), tôi không thế hạ sơn, đành biên thư mời Trưởng ty Tài chánh là Vương Trúc Thôn, Trưởng ty Thủy lợi Trương Chuyết Tiên, tạm thay tôi lo liệu mọi việc. Trương, Vương thấy lạ bèn báo tin cho Tỉnh trưởng họ Đường biết. Ông Đường dẫn cả nhà đến xem, thấy Sư vẫn còn ngồi sừng sững bất động. Khi họ tiến lại gần trước mặt, thì toàn thân Sư mới đồ xuống thành một đống tro xương, khiến ai cũng sinh lòng kính tin. Ông Đường xin chính phủ làm lễ truy điệu ba ngày, số người đến chiêm lễ tới mấy vạn. Ông Đường làm bài tựa, xin được lấy cái khánh của Sư cất trong Đồ Thư Quán của Tĩnh.

2 bài thơ truy điệu sư Cụ Hành:

Cô trường dục đoạn chỉ hô thiên
Thống tích thiền nhân vẫn thiếu niên
Số tải danh sơn tham yết biến
Quy lai niệm Phật hà bừa biên
Trợ hưng phạm sát đồng gian khổ
Mật hạnh công viên thượng phẩm liên
Thiêu tý dược vương cụ cúng dường
Khổng bi nhan một thượng thê nhiên.

Hoạt đáo vu kim tâm cánh hàn
Duy Sư siêu miễn bất tương can
Nhân đương mạt kiếp đa duyên lụy
Quân chí lâm chung nhật hỏa nguyên
Thế niệm nan vong sơ thái thục
Tây quy thả hướng tịch dương biên
Thương tâm lão lệ huy vô tận
Nhất thinh lưu âm thị diệu duyên.
Đau lòng nát ruột muốn kêu trời
Người đi sớm quá, tiếc không nguôi
Bao năm đi khắp nơi tham vấn
Khi về niệm Phật, cuốc cày vui
Góp sức xây chùa cùng gian khổ
Mật hạnh tròn, sinh Thượng phẩm thôi
Dược Vương thiêu tay cúng dường Phật
Sư lúc ra đi – lửa một mồi!

Đến đây càng thấy lạnh thê lương
Sư đã siêu rồi, đâu vấn vương
Người thời mạt pháp phiên lụy lắm
Riêng Sư thiêu thân đi nhẹ nhàng
Rau trái Sư trông đời nhớ mãi
Về Tây thong thả buổi tà dương
Thương tâm rơi lệ khôn cầm được
Còn tiếng khánh lưu duyên làm gương.

Phụ lục phần ghi trên bia của đại chúng chùa Vân Thê:

TRÙNG TU THIỀN TỰ VÂN THÊ

(Tại ngọn Hoa Đình, núi Bích Kê)

Về phía Tây thành Côn Minh khoảng 15 cây số, có ngôi chùa cổ tên Hoa Đình, nằm trên ngọn Hoa Đình, thuộc núi Bích Kê. Phía trái tựa vào ngọn Thái Hoa, bên hữu vòng quanh ngọn Bích Kê. Bên dưới, phía trước là ao Côn Minh, thuyền bè qua lại trong đây nhìn giống hệt như lướt trong tấm gương tròn lớn. Phía đông là đồi Hồng Sơn, một dãy đồi rất đẹp, uốn éo quanh co hướng vào thành. Trên không có mây lành năm sắc bủa giăng nhìn giống như bảo cái, chung quanh cây cối sầm uất, nổi bật hai ngọn tháp cao ngất. Tự viện, cung điện ở đây nhìn rất huyền ảo, phong cảnh xinh đẹp lạ kỳ, khó mà tả hết.

Năm Diên Hựu thứ 7 nhà Nguyên (1320 – Canh Thân) Hòa thượng Nguyên Phong, Huyền Thông đã đến cất am tranh ở đây. Đến mùa xuân năm Quí Hợi, nhờ đàn việt đóng góp, am tranh đã lột xác biến thành ngôi chùa lớn. Các vị kế thừa như Đạo Khuê, Đại Nghĩa, Kỳ Phong, Tương Thành, Tuyết Song, Nguyệt Đàm, Phổ Chiếu… đều là các bậc cao tăng đời Minh.

Đầu triều Thanh, có các vị như Tánh Không, Phổ Giải, Chiếu Hoàn. Đến đời Càn Long, Gia Khánh thì có các ngài Thật Địa, Thúy Quang, Diệu Tướng, Giác Quán, Bản Sơ…chuyên tu khổ hạnh, y bát truyền nhau, đến khai khấn thôn làng ở cạnh hồ, biến khu điền trang rộng mấy trăm mẫu thành của thường trụ, mặt hồ phản chiếu sắc núi, các bậc long tượng đua nhau xuất hiện nơi đây một thời.

Từ năm Hàm Phong, Đồng Trị về sau, Phật pháp tỉnh Điền suy dần, trải qua mấy cơn binh biến, nếp cũ bị hàng tân học biến đổi, nét thuần khiết thanh tịnh của thiền môn hóa ra tro bụi, vùng đất Thánh tích của thập phương bị bọn xiển đề chiếm đoạt. Chùa lọt vào tay hạng giả Sư – tu theo kiểu cha truyền con nối, người ngụ trong đó chẳng biết gì đến tên Tam bảo, thậm chí chẳng nghe đến Giới, Định, Huệ… Thói ác huân sâu, tệ tục dẫy đầy làm nghiêng ngữa chùa tháp, mõ chuông im tiếng. Tất cả sơn trang, ruộng đất, vườn cây… của chùa, đều bị bọn côn đồ hung ác chiếm đoạt, biến làm gia sản riêng của mình. Than ôi, Phật môn suy tàn đến nỗi này, làm sao mà không khỏi đau lòng!

Núi mang tên Hoa Đình, vì từ thuở ông Sĩ Cao xây lâu đài trên đỉnh Hoa Đình, đã có chim hạc bay liệng đầy. Chữ Hoa là biểu trưng, diễn tả cảnh chim bay đầy trời thuở ấy. Do tích này mà dân tỉnh Điền gọi chùa là Hoa Đình, gọi mãi thành quen.

Theo bia ghi của Tổ khai sơn Huyền Thông, thì đầu tiên Ngài đã lập Chánh điện Đại Quang Minh, bên trong có tượng Phật Tỳ Lô, bên phải và trái trưng bày 12 chương Viên Giác nên có trương bảng đề là Viên Giác.

Vào đời Minh, khoảng năm Thiên Thuận (1457-1465), Sư Tương Thành trụ trì nơi này, quan Tổng trấn họ Mộc và quan Đô giám họ Lê xây hào thành cho chùa, đã trình lên vua, tên chùa được vua sắc phong thành là “Đại Viên Giác Tự”, tấm biển đề ấy đến nay vẫn còn.

Năm Dân Quốc thứ 9 (1920), Thiền sư Hư Vân, nhận lời ông Đường mời, rời chùa Chúc Thánh, Kê Túc, chống gậy đến đây. Cho đổi tên chùa thành “Tịnh Quốc Vân Thê Thiền Tự”. Lúc Sư sửa chánh điện, đào đất sâu hơn một trượng thì bắt gặp tấm bia cũ mờ, chỉ còn hàng chữ đầu, ghi rõ: “Trụ trì Vân Thê Tự, Long Chương, Kiến Tánh, Nhân Sơn trùng tu thường trụ bia ký”, ngày, tháng, năm đều không đọc được, chỉ sót lại một chữ Trinh, không biết có phải là Nguyên Trinh? niên hiệu của vua Thành Tông triều Nguyên? (1295-1296) Hay là sau đó mới có chùa này? Chỉ tiếc là trong sách Sơn Chí của Vân Nam không ghi rõ. Nay ngài Hư Vân đổi tên chùa, tuy tình cờ mà ngẫu nhiên lại trùng hợp với tên Vân Thê ngày xưa, há chẳng phải là túc duyên xui khiến nên hay sao?

CHÙA “THÊ VÂN” VÀ “VÂN THÊ”

Xưa, Quốc sư Trung Phong kết thảo am ở tạm bên sườn núi Cô Tô, Hàng Châu, Triết Giang. Ông Triệu Văn Mẫn cho đề tựa trên bảng ỉà “Thê Vân” Về sau am bị hư hoại. Con cháu Quốc sư Trung Phong bèn xây lại am mới ngay trên nền cũ, vẫn giữ nguyên tên xưa. Khi ông Tông Văn Hiên làm bia đề là “Thê Vân Tự Ký” để ghi nhớ nguồn gốc, tưởng niệm Tam Muội như huyễn của Quốc sư. Còn Đại sư Liên Trì lúc trùng tu “Thiền Viện Vân Thê” ở Hàng Châu đã ghi: “Núi này thường có mây lành năm sắc, nên người ta gọi là núi Vân Thê”.

Ngô Việt Tiền Vương vì Thiền sư Phục Hổ lập chùa, sau đổi thành viện tu đạo Tiên và đổi tên là Thê Chân. Đến khi ngài Liên Trì trùng hưng lại, thì đặt tên là “Cổ Vân Thê Tự” (hàm ý là “chùa Vân Thê cũ”) tức khôi phục lại tên xưa vậy.

Ngài Hư Vân đặt tên chùa này là “Vân Thê” là có ý muôn hướng dẫn Tăng tục, xa thì nối pháp Thiền như huyễn của ngài Trung Phong, gần thì xiển dương giáo lý Tịnh Độ của Đại sư Liên Trì.

Duyên xưa thầm ứng, việc lại trùng hợp. Đất Vân Nam từ xưa đến nay luôn xuất hiện mây lành. Trước khi tổ Nguyên Phong đến đây, trên núi thường có mây lành xuất hiện. Khi ngài Nguyên Phong tới sửa chùa và rước Phật về, mây còn tụ lại đẹp như bảo cái.

Ngài Hư Vân thuyết pháp khế cơ, gặp người đến cầu pháp thì dạy họ tin sâu nhân quả, dặn nên thường niệm Phật A Di Đà. Xem ra Thiền tâm thâm diệu của Sư cũng hợp với ngài Trung Phong, bi nguyện rộng lớn cũng tương đồng với ngài Liên Trì. Biết đâu chùa Vân Thê thời này cùng với chùa Vân Thê ở Hàng Châu, chùa Thê Vân ở Tô Châu sau này đồng nổi danh như nhau?

Lúc ngài Hư Vân mới đến thấy phong cảnh hình thể chùa này rất đẹp nhưng cửa điện và phương hướng xây chẳng đúng, Tổ mạch dựa vào núi không chánh, ngoài cổng Tam quan thì mé bên phải lại tựa vào vùng trũng, bị gió bấc ép. Núi bên hữu cao, mà bên tả lại thấp, tạo thành thê Bạch hổ vượng mà Thanh long yếu. Trước cổng là sườn núi phẳng, do việc khai thác núi lấy đá. Còn việc làm mộ tháp chư Tổ, dựng lập rưng bia, lại đặt nằm ngồn ngang không trật tự, gây mất mỹ quan của tổng thể. Do đó mà chùa này lúc hưng lúc phế, đạo pháp điêu linh. Phải bồi sửa lại hình thể núi để cải hướng, tạo thế tựa vào núi làm gốc.

Đầu tiên, phải dời tháp chư Tổ sang phía Đông chùa, dời Điện Thiên Vương ra trước. Còn Phật Điện, Giảng Đường, Tăng Đường tất nhiên phải nối tiếp dời theo. Riêng Ao Phóng Sinh sẽ được đào ngoài cổng, ngoài ao xây Tháp báu Thất Phật. Mô phỏng theo sự bài trí giống chùa Thiên Đồng (Ninh Ba), bốn phía tả, hữu, trước, sau là mạch núi, phải hỗ tương nhau, thì phong khí nguyên thủy mới đầy đủ. Đây là những việc làm sơ khỏi lúc Đại sư lên núi.

Sư đến vùng sơn lâm hoang vắng này, nhằm lúc đạo pháp chưa thịnh, hằng ngày Sư đích thân điều khiển công tác, cực khổ lo toan, phí tổn lại quá lớn. Ban đầu phải vay mượn, gian khổ nếm đủ, lao nhọc chẳng từ. Phải mất ba năm Sư mới mua lại được các vùng rừng núi đã mất, tính ra hơn trăm mẫu điền trang. Song gió tà càng thổi mạnh, vì những lời dèm pha của những kẻ đã dứt hết căn lành, muốn nuốt trọn của thường trụ, quen cướp đoạt của chúng Tăng. Họ vờ viện cớ phải lo việc giáo dục thực nghiệm, mượn danh hành theo chánh sách mới… để dễ bề sang đoạt. Họ kiện tụng liên miên, hầu như không bao giờ kết thúc.

Cũng giống như Đại sư Hám Sơn ngày xưa khi trùng hưng đạo tràng Tào Khê, ngài Hư Vân đảm nhiệm mọi việc và làm xong hết rồi mà ma quân vẫn cố tìm cách cản trở.

Trải qua hai năm kiện tụng, đến lúc mọi việc được minh bạch thì ngài Hư Vân cũng hết duyên với nơi này và đi qua Nam Nhạc, đến đất Khuông Lô. Ớ đây Sư lại gặp việc tương tự. Thời mạt pháp luôn có các chướng nạn như vậy xảy ra, chẳng phải một, mà rất nhiều (đi đâu cũng gặp). Cho nên, muốn đem pháp Phật giáo hoá rộng khắp, không phải là chuyện dễ.

Tổ Tuệ Viễn xưa, chiêu mộ 123 vị hiền sĩ thì nhờ có quan Thích Sử Hoàn Y trợ giúp. Ngài Trí Giả khi lập 36 cảnh chùa được các vua Trần, Tùy, ủng hộ nên tông phong mới hưng thịnh. Vào thời Nam Bắc triều, các ngôi chùa lớn ở danh sơn, rất là nhiều, tất cả đều nhờ vào lòng hảo tâm của chư đàn việt trợ giúp mà lập nên. Đầu thời Minh, Thiền sư Giác Nguyên Thiên Giới ở Tưởng Sơn, vua Thái Tổ đã đem các thửa ruộng quân tịch của mình hiến cúng cho chùa. Vì bảo hộ núi rừng, vua đã rút kiếm trao cho Thiền sư, nói: “Nêu có đạo tặc đến quấy nhiễu xin cứ trừng trị”. Đủ thấy nhiệt tâm hộ pháp của vua.

Lúc ban sơ ngài Hư Vân đến lễ đức Ca Diếp, phát nguyện chỉnh đốn núi Kê Túc chấn hưng tùng lâm mười phương, chưa đầy vài năm đã thành ngôi Thiển Tự Hộ Quốc Chúc Thánh, phí tổn hơn 30 vạn kim.

Vào năm Quang Tự, Sư lên Kinh đô thỉnh Đại Tạng Kinh, được vua ban Long Tạng, vâng chỉ về núi. Giờ, Sư trùng tu “Thiền Tự Vân Thê Tịnh Quốc”, ắt phải tốn kém nhiều, nhưng chỉ trong vài năm là hoàn thành tâm nguyện. Sư liên kết với ông Đường, giúp hộ quốc và an quốc, công lao to lớn, phước trùm thiên hạ. Sư nhận lời mời của ông Đường làm đủ các việc Phật sự lẫn phúc đức cho bá tánh… Qua đây, chúng tôi có thể nói rằng, việc Sư giao du với ông Đường cũng giống như ngài Trí Giả từng tuyên bố: “Tôi cùng Tấn vương vốn có túc duyên thâm sâu”…

Khi công việc hoàn thành, Sư giao làm bài ký, chúng tôi không dám từ chối, xin lược ghi hạnh nghiệp của Sư để mọi người đồng thấy cái nhân Bát-nhã thù thắng, khai mở lòng tin chân chánh cho chúng sinh. Sư xả bỏ vinh hoa của thế tục, xuất gia vào tuổi thanh xuân, đi bộ lễ bái đường dài, vào Thanh Lương lạy Đức Văn Thù, đốt ngón tay để báo ân cha mẹ. Lễ chùa Dục Vương cảm ứng đến xá-lợi Phật, cất thảo am nơi núi vắng, ẩn trong hang tuyết mấy năm v.v… Ngay từ đầu, chí nguyện của Sư đã vượt ra ngoài vòng lợi danh. Từ sau khi ngộ đạo ở Chung Nam, bao nhiêu sức lực còn lại, Sư dồn hết vào việc trùng hưng, xây cất, tôn tạo, trang nghiêm Tự viện, Đạo tràng, Tháp miếu… Vì muốn độ chúng sinh, giúp họ có chỗ để quay về quy hướng, có được duyên may gần lành, lánh ác, nên Sư đã cất công chuộc lại phần đất tự viện từng bị mất cho chùa, chỉ mong người sống chẳng lầm nhân quả, không gieo nhân trầm mê nơi địa ngục. Những người không hiểu lại cho đây là “nhân tạo phúc báo hữu lậu cõi nhân thiên”. Thật đáng buồn thay!

Năm Giáp Tý – Dân Quốc thứ 13 (1924), Chùa Vân Thê, Đại chúng lập bia.

04

DÂN QUỐC 14 (1925) ẤT SỬU – 86 TUỔI

Mùa Xuân, sau Đàn giới, giảng Kinh xong, tôi mở trường thất tại Thiền Đường.

Phạm vi đất chùa trên núi rất rộng nhưng cây cối quá sầm uất, tôi cho phát quang một ít, gọi người trong thôn đến, chỉ định khu vực trồng trọt rồi bảo họ cùng làm cùng thu hoạch, mỗi bên hưởng một nửa, dân làng rất mừng.

Năm này, tỉnh Điền đổi sang chế độ Ủy viên, ông Đường lui về ở ẩn trong núi.

Đại sự năm này:

Tháng 3, Tôn Trung Sơn mất tại Bắc Kinh.

DÂN QUỐC 15 (1926) BÍNH DẦN – 87 TUỔI

Những năm gần đây, tỉnh Điền xảy ra rất nhiều việc, binh sĩ trú đóng tại nhà dân, an ninh không ổn. Đến mùa lúa chín, dân không dám gặt vì sợ binh sĩ. Tôi đến Quân bộ thương lượng, họ cho phép thu hoạch với điều kiện: Nếu tu sĩ hướng dẫn nông dân gặt lúa thì binh lính không cản trở.

Đồng cam cộng khổ

Nhân đó, mấy ngàn dân làng đồng đến chùa ở. Lúc đầu, cùng ăn cơm khô, kế ăn cháo, cháo hết thì cùng ăn cám uống nước. Dân làng thấy chư Tăng đồng cam cộng khổ với họ như thế, cảm động rơi nước mắt. Đến khi việc quân tạm yên, nông dân mới được trở về. Từ đó về sau, họ hết lòng bảo hộ chùa, tận tụy chí thành.

Tôi từ lúc Trụ trì chùa Vân Thê, năm nào cũng truyền giới, giảng Kinh, tọa hương. Năm nay, lúc mở Đàn giới, cây mai khô trước điện bỗng trổ mấy mươi đóa sen trắng. Còn trong vườn, tất cả rau cải đều trổ hoa sen xanh. Chính giữa mỗi đóa hoa; hiện rõ hình Phật đứng Việc quá hy hữu nên cư sĩ Trương Chuyết Tiên có soạn bài ký, ghi lại điềm lành về cây mai và rau cải nơi chùa Vân Thê, cho khắc vào đá.

ĐIỀM LÀNH CỦA RAU VÀ MAI Ở VÂN THÊ

Cuối xuân Bính Dần, chùa Vân Thê có mở Đại giới đàn, Tăng sĩ, cư sĩ mười phương đều tụ hội về.

Bậc Đại đức đang lên đài, thay Phật tuyên dương Bồ-tát giới thì cây mai già héo khô trước điện bỗng trổ hoa sen trắng, chừng vài mươi đóa. Hoa to bằng cái chén, mùi hương vi diệu tinh khiết, tua hoa giương lên giống như bảo cái. Ai nhìn cũng kinh ngạc trầm trồ vì quá lạ lùng.

Còn trong vườn, rau cải đều trổ hoa sen xanh, giữa đài hoa có hình vị Phật đứng. Vườn rau trước, sau… trên mỗi hoa sen đều có một Như Lai, tưởng chừng như thấy được Phật Lô Xá Na ngồi trên đài sen, trên nghìn hoa quanh đây đều hiện nghìn đức Thích Ca. Tất cả đại chúng có cảm giác như mình được đến thế giới Liên Hoa hải tạng, cúng dường thờ phụng… Ôi, điềm lành đặc biệt này quả là hi hữu!

Tôi nghe nói bậc cao tăng thuyết pháp, trời mưa hoa báu, những điềm lành này cũng hiếm có giống như hoa Ưu Đàm, mấy nghìn năm mới hiện một lần.

Hòa thượng Hư Vân hoằng pháp tại tỉnh Điền, trùng hưng các ngôi chùa cổ, dạy chúng sinh lánh ác gần lành, đoạn trừ phiền não, gieo giống Bồ đề. Dạy chúng sinh trì Kinh Diệu Liên, hành hạnh Phổ Hiền, chứng quả Niết Bàn… Do tâm Bồ-đề Ngài quá rộng lớn, hằng thuận chúng sinh, cảm động đến mười phương chư Phật, Bồ-tát, chứng minh hạnh nguyện viên thành, làm cảm động các cõi trời Thích, Phạm, mới khiến điềm lành ứng hiện. Tôi được tận mắt chứng kiến nên làm bài ký này.

Lập đông, năm Bính Dần (1926), cư sĩ Hoằng Tây kính ghi.

DÂN QUỐC 16 (1927) ĐINH MÃO – 88 TUỔI

Năm này vẫn truyền giới tại chùa, giảng Kinh, tọa thiền, cùng tiến hành xây tiếp các ngôi điện vũ, phòng xá dang dở và cho xây lầu chuông U Minh.

DÂN QUỐC 17 (1928) MẬU THÌN – 89 TUỔI

Do phải quyên tiền đúc Thánh tượng, tôi cùng cư sĩ Vương Cửu Linh (Khoan Thiền cư sĩ) đi sang Hương Cảng. Lúc ấy Trần Chơn Như (Minh Xu) là Tổng đốc đất Quảng, phái người đến Quảng Châu tiếp rước. Tôi ngụ ở viện Di Dương, đồng đi tham quan chùa Năng Nhân, núi Bạch Vân. Ông Trần mời tôi về Trụ trì chùa Nam Hoa Tào Khê nhưng tôi từ chối.

Đến Hạ Môn, tôi sang Phuớc Châu rồi trở về Cổ Sơn giảng Kinh. Xong, đi thăm chùa A Dục Vương, lễ xá-lợi, triều bái Phổ Đà. Hòa thượng Văn Chất rước tôi đến đất Hổ, ở chùa Long Quang, Hương Sơn Am.

Đến mùa đông, Hòa thượng Đạt Công viên tịch tại Cổ Sơn, chùa phái người đến đất Hổ, bàn luận công việc. Thấy năm sắp hết, tôi ở lại đất Hổ qua năm.

DÂN QUỐC 18 (1929) KỶ TỴ – 90 TUỔI

Tháng giêng, tôi từ đất Hổ về Cổ Sơn, Đô trưởng Hải quân kiêm Chủ tịch đất Mân là Dương Ấu Kinh (Thọ Trang) cựu Chủ tịch Phương Thinh Đào cùng các quan cùng đến thỉnh tôi làm Trụ trì Cổ Sơn. Đây là nơi đầu tiên tôi tới xin cạo tóc xuất gia, nhớ đến ơn xưa, tôi không thể chối từ, đành phải nhận.

DÂN QUỐC 19 (1930) CANH NGỌ – 91 TUỔI

Sau một năm ở Cổ Sơn chỉnh lý mọi việc, xem như tạm xong. Trong Giới kỳ mùa xuân, tôi thỉnh Hòa thượng Văn Chất làm Yết-ma, tôi giảng Kinh Phạm Võng cho chúng.

Ở phương trượng cũ có hai cây Phượng vĩ Thiết thọ nhiều năm rồi nhìn giống như cây bị chết khô, chư vị cổ đức kể rằng: “Một cây do chính tay Mân vương trồng, một cây do Tổ sư Thánh Tiễn trồng, có từ thời Đường, kể đã có ngàn năm. Đây là loại cây rất chậm lớn, sống rất lâu. Mỗi năm chỉ ra một hai lá. Đến nay, mỗi cây đều cao khoảng một trượng, chưa từng trổ hoa. Nghe kể rằng phải cả nghìn năm chúng mới khai hoa. Khi ngài Hư Vân đến. Trụ trì Cổ Sơn, ngay trong Giới kỳ này, hai cây bỗng nhiên ra lá trổ đầy hoa, làm chấn động cả núi. Mọi người đều cho đây là điềm lành, xa gần đều kéo đến xem, càng thêm mộ đạo. Hòa thượng Văn Chất cũng làm một bài văn ngắn ghi lại việc đó như sau:

THIẾT THỌ TRỔ HOA

“Mùa xuân năm Canh Ngọ, gặp Sư huynh Hư Vân chủ trì Thạch Cổ, truyền trao giới pháp, tôi rất là tùy hỷ nên vượt biển đến đất Mân. Người về tham dự rất đông. Đến nơi thấy Thiêt thọ nở hoa, phồn thịnh không gì sánh được. Hoa trắng, to bằng cái chậu, tua cánh dài như đuôi chim phượng, tương tự điềm lành Ưu Đàm. Hỏi thăm các bậc bô lão đều nói rằng cây trồng từ đời Đường, một do chính tay Mân vương trồng, một do Quốc sư Thánh Tiễn đích thân trồng, đến nay đã hơn nghìn năm. Hiện loại diệu hoa này, thật là hy hữu. Quá cảm kích, tôi mời Vân huynh chụp ảnh lưu lại kỷ niệm về điềm lành ứng hiện tại chùa Dũng Tuyền này.

Văn Chất kính ghi”.

Từ biệt tỉnh Điền

Mùa thu, tháng 9, tôi trở về tỉnh Điền, cùng đi với Hòa thượng Văn Chất, giao chùa Vân Thê cho Hòa thượng Định An, thỉnh Hòa thượng Văn Chất truyền giới tại Vân Thê, các quan cùng dân làng cứ nài nỉ mời tôi ở lại, tôi chỉ biết cảm tạ thịnh tình của họ, rồi cùng Hòa thượng Văn Chất từ biệt. Ngày tôi lên đường về đất Mân, dân làng lập bàn hương án, cung kính tiễn đưa suôt quãng đường dài ngót mấy chục dặm, làm tôi cảm thấy hổ thẹn vô cùng.

DÂN QUỐC 20 (1931) TÂN MÙI – 92 TUỔI

Tôi vẫn ở tại Cổ Sơn lo liệu các việc như truyền giới, giảng Kinh, xây Học Viện Giới Luật, lập các Am: Bình Sở, Tây Lâm, Vân Ngọc…

Đại sự năm này:

Ngày 18 tháng 9, quân Nhật đột chiếm Phần Dương, đoạt ba tỉnh miền Đông.

DÂN QUỐC 21 (1932) NHÂM THÂN 93 TUỔI

Mùa xuân năm nay, tôi mở Đàn giới ở Cổ Sơn.

ÔNG GIÀ XIN THỌ BỒ-TÁT GIỚI

Có một ông già râu tóc trắng như tuyết, diện mạo thanh kỳ, đi thẳng vào phương trượng, quỳ trước mặt tôi, xin thọ giới. Tôi hỏi danh tánh, ông thưa họ Dương, người Nam Đài, tỉnh Mân. Có giới tử Diệu Tông, cũng ở Nam Đài nhưng chưa từng gặp ông lão. Đến khi truyền Bồ Tát giới, cấp điệp đàn xong thì không thấy ông nữa.

Lúc Diệu Tông về, đi ngang qua miếu thờ Long Vương ở Nam Đài, bỗng nhận ra bức tượng đang ngồi chễm chệ chính là ông già thọ giới chung với mình, điệp đàn còn nằm trong tay ông. Chuyện này được đồn vang làm chấn động cả vùng Nam Đài. Thiên hạ bàn tán rầm rĩ vì Long vương cầu giới.

Cũng trong Giới đàn này, có cư sĩ Trương Ngọc Đào 66 tuổi, quê ở Quảng Đông, đã đậu Hiếu Liêm, đến chùa xin thọ giới. Tôi mời ông đảm nhiệm việc chỉnh lý Kinh tạng tại Cổ Sơn.

DÂN QUỐC 22 (1933) QUÍ DẬU 94 TUỔI

Mùa xuân, Nhật chiếm hải cảng Lãnh Sơn, khiến lòng người dao động bất an, 19 đạo quân đất Mân nổi dậy, các tự viện toàn tỉnh đều đình chỉ việc cho khách Tăng tạm trú. Chỉ có Cổ Sơn là còn nhận, vì vậy Tăng chúng bốn phương đổ về đây lên đến ngàn rưỡi-ngàn sáu người, khiến lương thực không đủ cung cấp, chùa ráng duy trì được bữa cơm, bữa cháo.

Con ngỗng ở Cổ Sơn

Tháng sáu, khánh thành vườn phóng sinh, cư sĩ Trịnh cầm Tiêu đưa đến một bầy ngỗng, trong đó có một con ngỗng trống rất là đặc biệt, nặng khoảng 9kg 6, hễ nghe tiếng mõ thì nó dang cánh rướn cổ kêu to, lúc vào Điện Phật thì đứng yên chiêm ngưỡng. Được một tháng, nó đứng trước Phật mà mất, vẫn không ngã. Trịnh cư sĩ lấy làm lạ, bèn xin thiêu nó như chư tăng. Để bảy ngày mới thiêu, vẫn không có mùi hôi. Nhân đó, mới làm ngôi mộ gia súc cho nó.

Phần Phụ ghi: CHÙA DŨNG TUYỀN

Chùa Dũng Tuyền ở Cổ Sơn, Phước Châu là một ngôi chùa xưa nổi tiếng, có lịch sử lâu đời, điện vũ nghìn trùng, là thắng cảnh đệ nhất ở đất Mân.

Thế nhưng, Tăng chúng lại sống rất lộn xộn, vô phép tắc, hỗn tạp như thế tục. Thời gian gần đây, những kẻ ẩn dương nương Phật đã lợi dụng phong cảnh ưu mỹ này làm kế sinh nhai. Khách hành hương đến nhiều, càng đễ khiến chốn này thành nơi trục lợi của những kẻ mua bán Như Lai. Thọ giới xong họ chỉ là Tỳ kheo danh tự, hễ ai quyên tởi, kiếm được nhiều tiền, vàng… thì được tôn làm Thủ tọa, chiếm vị trí đứng đầu, thọ hưởng mọi tôn vinh. Tiếp đến là Tri khách, chức này cũng kiếm được nhiều tiền bạc, lợi nhuận… Đến nỗi, nếu Thủ tọa có hơn trăm người, thì chức Tri khách cũng ngót nghét tám, chín chục mạng. Trừ nơi này ra, các Tùng lâm khác đều không có như vậy. Chứng kiến cảnh này, ngài Hư Vân càng thêm xót xa, nhưng không biết làm sao. Gặp lúc Chủ tịch chính phủ là Lâm Sâm, Tổng tư lệnh Hải quân Dương Thọ Trang, chủ tịch tỉnh Mân là Phương Thinh Đào v.v… về quê, có ý muốn chỉnh đốn Cổ Sơn và họ nghĩ: “Ngoại trừ ngài Hư Vân ra, chẳng ai có thể đảm đương nổi việc này. Thế là họ gởi thư, đánh điện tới mời thỉnh mấy phen, ngài Hư Vân mới nhận.

TRỞ LẠI CỔ SƠN

Đến năm Dân Quốc thứ 18 (1929) – Kỷ Tỵ, ngài Hư Vân trở lại cổ Sơn, lo xây dựng tu bổ chùa viện, còn hai việc phải thực hiện nữa là:

  1. Chỉnh Tu Kinh Tạng

Cổ Sơn kinh bổn rất nhiều, toàn là những sách quý hiếm mà trong và ngoài nước không có. Như Tô Đông Pha đã vì chùa Kim Sơn viết Kinh Lăng Già, chữ của ông mỗi mỗi đều ưu mỹ, không nét bút nào mà không tinh xảo. Đây là kiệt tác cả một đời ông – Bản Bắc Tông được cất tại chùa Kim Sơn – còn Cổ Sơn giữ được bản Sơ tháp, nhờ tuyển thợ lành nghề khắc, nên nhìn giống y như bản Kim Sơn. Ngoài ra, các bản Kinh in từ đời Minh rất là phong phú, song trong phòng chứa Kinh, các giá đựng sách bị hư hoại nhiều. Bấy giờ, cư sĩ Trương Thọ Ba ở Quảng Đông theo Sư xuất gia. Sư bèn giao ông chỉnh lý và lo liệu mọi việc về Kinh tạng. Phải ba năm việc biên tập, chỉnh sửa những chỗ sai, ghi lại danh mục, bổ sung Kinh Tạng… ở Cổ Sơn mới hoàn tất. Hàng trăm hàng ngàn bộ Kinh tinh diệu nhờ vậy mà được bảo tồn. Việc in ấn Tinh Đăng Tập, Cổ Sơn Tông Phổ, Lịch Đại Tố Tượng v.v… cũng được tiến hành.

  1. Chấn Chỉnh Sơn Môn

Việc đám sám ở Cổ Sơn còn lắm nhiêu khê phiền phức, do tập khí đã huân sâu. Sau khi ngài Hư Vân trụ trì, lập tức cho bài cũ đổi mới, chấn chỉnh lại hết. Ngài bãi chức hơn trăm ông Thủ tòa, chỉ cho dùng tám vị Tri khách. Lúc trước, Thiền Đường ngồi ngày chỉ ba cây hương, giờ Sư tăng lên mười hai cây, tất cả phải vào nề nếp mẫu mực, chùa Kim Sơn bắt buộc phải tuân thủ. Nhờ vậy các vị Tăng lão tham đều vân tập về, ngài Hư Vân mời các bậc long tượng đảm đương các trách vụ quan trọng và còn sáng lập Phật Học Xã để cho giới trẻ đến học đạo.

Ngày trước, mỗi lần trong chùa có đám sám, khán đài được lập tại chánh điện cho người xem, nhạc thế tục cùng Phạn âm xen lẫn, Tăng sĩ và Cư sĩ cùng cợt đùa. Ngài Hư Vân thấy việc ]ập khán đài nơi điện Phật rất trái quy chế, gây ầm náo, ồn ào không đúng phép xưa, nên ra lịnh cấm tất. Nếu trai chủ có ưa nhạc thế tục thì ra ngoài mà nghe, còn thiết lễ thì không cho làm ầm ỹ, náo nhiệt, phải loại bỏ hết. Tăng chúng đa số không vui, chỉ có mình Hòa thượng là hoan hỷ nói:

– Từ nay trở về sau, nơi đây mới có thể gọi là đất Phât thanh tịnh!

Hòa thượng về Cổ Sơn trụ trì mới vài năm, môn phong được phục hưng cứu vãn, Tăng già thành lập. Trong nước ngoài nước đều nghe danh và ca ngợi rằng vị Hòa thượng 90 tuổi này quả có nghị lực phi thường, Ngài đã làm cho ba ngôi danh lam: Kim Sơn, Cổ Sơn, Cao Mân trụ vững như kiềng ba chân.

Phụ ghi: SƯ QUÁN BỔN

Sư tên Trương Thọ Ba, hiệu Ngọc Đào, người huyện Hương Sơn, Quảng Đông, con nhà giàu có. Năm Quang Tự 17 (1891), đỗ khoa thi Hương, đậu Cử Nhân hạng Bảy lúc mới 24 tuổi.

Tuổi thiếu niên thi đậu sớm, nổi tiếng học rộng tài cao. Có đầu óc duy tân. Từng sang Nhật, làm Hiệu trưởng Trường Hoành Tân Đại Đồng nhiều năm. Đến tuổi tráng niên, hiểu lý xuất thế, để tâm nghiên cứu kinh điển, đem hết gia sản giàu có, biến thành rừng công đức.

Năm Dân Quốc thứ 9 (1920), cho con trai độc nhất của mình xuất gia với Hòa thượng Vi Quân, nhưng chưa được bao lâu thì cậu con mất. Ông vì còn mẹ già, chưa thể lìa xa. Năm Dân Quốc 19 (1930), Canh Ngọ, bà cụ mất, ông xuất gia. Đến Cổ Sơn, xin Hòa thượng Hư Vân thọ giới, pháp danh Minh Nhất, hiệu Quán Bổn, năm 66 tuổi. Ông thưa với ngài Hư Vân:

– Đệ tử việc mình chẳng sáng, chưa buông bỏ được, xin Thầy khai thị cho.

Hòa thượng Hư Vân bảo:

– Bình thường tôi dạy người buông bỏ, thế nhưng đối với ông thì tôi khuyên chẳng nên buông bỏ, mà nên quải theo tất! Bởi ông đã xả bỏ đến tận cùng rồi. Ông vốn là người phú quí, cả đứa con trai độc nhất cũng dâng cho đạo và nó đã qua đời. Hiện tại ông đã xuất gia, đã buông xả hết trơn rồi, còn có cái gì không buông được thì nên quải theo để gánh vác việc lớn Như Lai!

Sư rơi lệ vâng lời. Hòa thượng bèn giao Sư chỉnh sửa, biên tập “Cổ Sơn Tông Đồ” và tất cả bản Kinh. Về “Truyện ký của Chư Tổ Sư Cổ Sơn” gần đây, trong các bản Tạng cũ đa số không có, nhưng trong bộ Tân Tục Tạng Đại Chánh của Nhật Bản thì có. Do vậy Sư phải đến Thượng Hải gặp Sầm Học Lữ, hỏi thăm bản Tân Tục Tạng Đại Chánh. Ông Sầm hỏi lại Diệp Cung Xước thì Diệp nói:

– Bộ Tục Tạng của Nhật có cả nghìn quyển, chứa hơn mười rương, họ mới gởi qua cho tôi hai tháng nay, chưa khui ra. Nếu ngài Hư Vân thích thì tôi xin hiến tặng.

Sư đem về, lo biên tập thêm phần “Truyện Ký Của Chư Vị Tổ Sư Cổ Sơn”. Khi ngài Hư Vân đi Nam Hoa, Sư làm Thủ tọa, phụ giúp rất đắc lực.

Năm Dân Quốc 34 (1945), kháng chiến thắng lợi, Hòa thượng bảo Sư trở về Quảng Đông, Trụ trì chùa Lục Dung.

Trước khi qua đời, Sư bệnh không dậy nổi, ngày mồng sáu tháng chạp thì mất, thọ 78 tuổi, tăng lạp 16. Số đệ tử nam nữ quy y Sư có hơn cả vạn. Người đi đưa quan rất đông, trà tỷ được xá lợi nhiều vô số.

Sư sáng tác, biên thuật rất nhiều, có các tập Hương Quang gồm 20 quyển.

(Phần ghi thêm của Sầm Học Lữ): HÒA THƯỢNG HƯ VÂN Ở CỔ SƠN

Trải qua nhiều triều đại đến nay, Cổ Sơn luôn có các bậc Đại đức cao tăng. Uy danh nổi khắp, thịnh nhất vào thời Đường, đến thời Minh vẫn còn những bậc long tượng đặc biệt, hi hữu. Vì vậy mà nơi này được xếp vào hàng danh sơn nổi tiếng vì có nhiều cao tăng.

Đến năm 1929, Cổ Sơn hoàn toàn thay đổi, đất của chùa bỗng biến thành gia sản truyền thừa cho con cháu hưởng, dẫn đến đọa lạc suy vi thảm hại. Cũng may, được hai vị chấp chính tỉnh Mân là Dương Thọ Trang, Phương Thinh Đào, (đệ tử quy y Hòa thượng Hư Vân), thấy tình cảnh này, lòng rất bất bình nên đã liên lạc với các nhân sĩ và bốn chúng trong Phật giáo, họ vận động, thỉnh được ngài Hư Vân đến chủ trì và lo việc chỉnh đốn, phục hưng Cổ Sơn.

Cổ Sơn cách thành Phúc Châu chừng 30 dặm (khoảng 15 cây số) từ chân núi lên đến đỉnh cao độ 5000m. Có chùa Dũng Tuyền để nghỉ chân. Lôi đi lên là con đường có những bậc thang đá phẳng rộng. .Khi ngài Hư Vân đến Cổ Sơn, từ chân núi đến trên đỉnh, thiện nam tín nữ cung kính dâng hương hoa, quỳ dài bái lạy, nhiệt liệt nghênh đón. Đủ thấy sức cảm hóa của Ngài rất mạnh, rất sâu. Có ba việc đáng lưu ý là:

Một – Khi Sư đến Cổ Sơn, bước đầu tiên là chấn chỉnh sửa đổi lại hết. Chẳng cho phép bất kỳ ai trong chùa thu nạp đồ chúng hay phật tử riêng. Kế đến Ngài dẹp hết mấy cái bếp cá nhân, thống nhất thành bữa ăn chung bình đẳng. Sau đó là bắt tay vào giải quyết các tình trạng rắc rối nhiêu khê, cắt giảm một dọc dài lê thê các chức Thủ tọa danh tự, chỉ chừa lại một, hai vị. Tất nhiên con số bảy- tám mươi Tri khách cũng bị chiết giảm bớt, chỉ cho phép dùng từ năm đến tám Tri khách thôi. Còn các chức khác như Thư ký v.v… thì căn cứ vào tài đức mà dùng. Xem như những ai mang chức rỗng hưởng nhàn, (hữu danh vô thực) đều bị bãi miễn hết. Sự cải cách, chấn chỉnh này đã châm ngòi thù hận nơi những người thân tăng tâm tục, họ tức giận vì bị mất quyền lợi, nên đã liên kết, hợp nhau làm loạn, tìm đủ cách phá hoại trong chùa để phản đối ngài Hư Vân. Số người đầy ác tâm, bất tuân kỷ luật này âm thầm bàn mưu tính kế trừ khử Sư.

Vào một đêm khuya lạnh lẽo, họ hè nhau chất củi phóng hỏa, thiêu rụi hết phòng ốc. Ngài Hư Vân chẳng hề thưa với quan phủ việc này, nhưng cuối cùng chính quyền tỉnh Mân cũng hay được, liền phái binh lính lên núi trấn giữ bảo vệ Sư. Chính quyền cho bắt hết can phạm đem về thẩm vấn, nhưng ngài Hư Vân không muốn chính phủ xử tội họ, nên đã xin tha và phóng thích họ. Việc này càng hiển lộ đức hạnh phi phàm của Ngài.

Hai là – Chỉnh lý đạo phong. Thiền Cổ Sơn vốn có uy, nổi danh khắp nước. Thế nhưng trước khi ngài Hư Vân đến, nơi đây đã trở thành chốn hữu danh vô thực. Trong chùa trừ một-hai vị tăng có nhiệm vụ giám sát, quản lý môn hộ ra, bọ chẳng thèm làm gì khác nữa. Chẳng lên điện, chẳng toạ hương… chứng kiến cảnh này ngài Hư Vân làm sao không khỏi đau lòng?

Ngài lập tức bắt tay vào chấn chỉnh Thiền Đường, khuếch sung nhân số. Tất cả đều phải dốc sức nỗ lực. Số Tăng chúng trong chùa đông dần. Chế độ tham thiền tĩnh tọa mỗi ngày mười hai cây hương được khôi phục. Mùa đông còn có thêm đả thất. Người khắp mọi miền trong nước đều tìm đến tham vấn, học thiền, thân cận với Ngài, chúng Tăng đông phi thường, Thiền phong cực thịnh, đứng đầu toàn quốc. Chùa Trung Nguyên có Niệm Phật Đường do ngài Hư Vân khởi xướng, chúng ở đấy có khoảng ba-bốn mươi vị, lấy niệm Phật làm thời khóa. Ngài thỉnh Pháp sư Từ Đan chủ trì và giám hộ chư Tăng trẻ. Vì sợ các thiếu niên bỏ học, Ngài lập Viện Học Giới Đường, sau này đổi tên thành Phật Học Viện Cổ Sơn.

Các Pháp sư Tông Kính, Đại Tỉnh, Ấn Thuận, Tâm Đạo v.v… đều đến dạy. Lúc Pháp sư Từ chủ trì và thuyết giảng, đã cho đổi tên thành Pháp Giới Học Viện. Cổ Sơn có hệ thống Phật pháp xuyên suốt bao gồm đủ các môn Thiền, Tịnh Giáo, Luật, há không phải là rất hoàn bị và chu toàn? Song ngài Hư Vần chẳng cho thế là đủ, Ngài còn xây thêm Diên Thọ Đường để nuôi những người già yếu tu dưỡng và cử người trông nom chăm sóc họ. Ấn định thời khoá mỗi ngày là ba cây hương. Ngài còn cho xây Bệnh Viện Như Ý Liêu, mời các bác sĩ chuyên môn đến chẩn trị, bố thí thuốc men, chăm sóc người bệnh…

Những việc làm như thế này, phải nói là rất hiếm có trong các ngôi danh sơn toàn quốc. Tăng chúng thường trụ ở đây có hơn ba trăm vị, cùng hành trì, cùng lên điện đường công phu sớm tối. Vào mùa hạ khí trời nóng như thiêu cũng không gián đoạn, Hoà thượng không hề vắng mặt. Chùa tự lo thức ăn. Mỗi năm vào đầu Xuân, toàn chùa hành Sám pháp, cùng lễ Vạn Phật nửa tháng. Hết Xuân thì mở đàn truyền giới lần 1, đến mùa Hạ thì giảng kinh, Giảng Sư đến giảng các pháp môn, toàn là những bậc cao đức có tiếng tăm.

Ba là – Xây dựng phòng ốc. Phòng ốc Cổ Sơn vốn rất tề chỉnh, Hoà thượng quyết tâm phục hưng, nên đối với chùa Dũng Tuyền cũng cho làm mới lại hết. Ngài kiến thiết, tân trang… tạo thành những ngôi điện vũ tôn nghiêm mỹ lệ. Khi bị người phóng hỏa thiêu rụi phòng ốc, điện đường… thì Ngài vẫn cho xây dựng lại như trước. Niệm Phật Đường, Diên Thọ Đường, Phật Học Viện, đều là những công trình đổi mới hoành tráng. Bệnh Viện Như Ý Liêu được xây theo kiểu hiện đại với hai tầng lầu. Có thể thấy ngài Hư Vân rất quan tâm lo cho người bệnh thống khổ. Ngoài ra, Nhà Khách trước đây chẳng được ai để ý, nguyên là một ngôi nhà nhỏ hẹp, u ám tối tăm. nằm trong một xó xĩnh, chẳng ai muốn bước vào. Song ngài Hư Vân vốn là bậc thầy có kinh nghiệm lào luyện về chuyện hành cước rồi nên rất hiểu tình huống này, vì vậy mà Ngài đã cho xây cất lại, Nhà Khách – ngoài cái tên Thượng Khách Đường thu hút, còn là một ngôi kiến trúc nổi danh kỳ bảo – cũng thanh tịnh trang nghiêm hệt như Thiền Đường, có khác chăng là chỉ hơi nhỏ hơn một chút thôi. Còn Long Các – do người trông coi không cẩn thận để bị lửa thiêu cháy, chẳng bao lâu cũng được Ngài xây mới lại, không những đã kiên cố mà còn rất mỹ quan.

Chú thích của Sầm Học Lữ:

Những điều lược kể này hoàn toàn là sự thật, khi Biền giả đến cổ Sơn, nhằm vào thời ngài Hư Vân về trụ trì cổ Sơn. Còn chuyện Ngài trú ngụ trước đó thì Biền giả do thấy nghe hữu hạn, nên không thê kể hèt được, chỉ ghi lại phần mình hiêt rõ mà thôi.

Biên giả ở Cổ Sơn, thân cận Ngài cũng được hai năm, thấy Ngài đối với tứ chúng đệ tử đến học đạo, chẳng hề phân biệt nam, nữ, già, trẻ, giàu, nghèo gì. Bao giờ Ngài củng dùng thái độ từ bi bình đẳng tiếp dón, hướng dẫn, thiết tha khai sáng cho họ. Gặp người ưa Thiền thì Ngài dạy Thiền, ai thích niệm Phật thì khuyên nên cầu sinh Tịnh Độ. Người ưa Giáo thì dạy làm Pháp sư, Ngài luôn tuỳ cơ thuyết pháp, chẳng bao giờ khen mình, chê người. Phàm có người đến bái lễ, không ai mà Ngài không hoàn lễ, tiếp kiến. Trừ lúc tùy chúng vào Điện đường ra, Ngài chuyên tâm tu Thiền, lúc nào cũng uy nghi, nghiêm trang, y phục giản dị, nội thấtNgờÁ ngoài một bàn, một ghế, một giuờng ra thì chẳng có gì khác.

DÂN QUỐC 23 (1934) GIÁP TUÂT – 95 TUỔI

Trong Giới đàn mùa xuân, tôi mời Pháp sư ứng Từ giảng Kinh Phạm Võng.

Mùa xuân, Phật Học Viện Cổ Sơn xây mới và chỉnh đốn xong. Tôi mời Lão pháp sư Từ Đan làm Chủ trì viện.

Thời đã đến rồi, ông nên về đĩ!

Một đêm tháng hai nọ, tôi đang ngồi tĩnh tọa, giống như mộng mà chẳng phải mộng, tôi thấy Lục Tổ Đại Sư đến bảo: “Thời đã đến rồi, ông nền về đi!”

Hôm sau, tôi nói với đồ đệ Quán Bổn:

– Chắc duyên trụ thế của Thầy không còn lâu nữa. Đêm qua, Thầy mơ thấy Lục Tổ triệu mình về!

Đến giữa tháng tư, trong một đêm mà ba lần tôi mộng thấy Lục Tổ đến thúc giục mình về. Thức dậy tôi rất ngạc nhiên. Chẳng bao lâu, thì tôi nhận được điện từ Quảng Đông gởi đến mời thỉnh. Tôi vì đạo tràng Lục Tổ đang rất cần, cũng muốn tiếp nối Ngài Hám Sơn bắt tay vào việc trùng tu đạo tràng Lục Tổ, nên đi sang Lãnh Nam.

Trước đó, Tướng quân Lý Hán Hồn đóng binh ở phía bắc Quảng Đông, thấy chùa Nam Hoa bị tàn phá, đã cho tu bổ sơ lại, từ tháng 9 Dân Quốc 22 đến tháng 8 năm sau thì sửa xong.

Mùa Đông, chư vị đàn việt hộ pháp tha thiết thỉnh tôi truyền giới. Chùa điện đã ngả nghiêng, phòng thất hư hoại, chỉ có gian nhà tre lợp tranh là còn ở được. Khách khứa các nơi đến cả trăm người. Đông đảo quan, dân cùng thân quyển đất Quảng và Thiều Quang, đều tùy hỷ đến, xin quy y.

Ngày 17 tháng 11 âm lịch, tôi làm lễ kết giới ở chánh điện. Vào đêm thuyết giới Bồ Tát, có con cọp đến quy y, đại chúng đều kinh hoảng. Tôi thuyết giới cho nó xong, nó hiền lành ra đi.

Giải thích thêm về chuyện Cọp quy y

Mùa Đông, năm Dân Quốc thứ 23 (1934), Sư khai đạo tràng, tứ chúng vân tập, các vị quan lớn quí tộc đều dẫn quân binh theo. Đêm ấy, lúc vào đàn thì người cháu gọi Giang Khổng Ân bằng chứ, đang đứng trên Tàng Kinh Các (Lầu chứa kinh), bỗng thấy ngoài cổng Tào Khê có hai luồng điện xanh lè, bèn đến gần xem, mới hay là con cọp, ông kêu ầm lên, binh lính giương súng định bắn. Sư vội đến nơi, cọp liền nằm mọp dưới thềm.

Sư thuyết Tam Qui cho nó nghe, dặn hãy vào ẩn trong núi sâu, đừng làm hại người. Cọp khấu đầu ba lần rồi bước đi, song vẫn ngoái lại nhìn Sư với vẻ rất lưu luyến. Từ đó, mỗi năm nó về thăm Sư môt, hai lần, núi bặt dấu các loài dã thú. Mỗi khi nghe có tiếng hổ gầm, Sư đều bước ra, dịu dàng bảo ban nó.

Đây là câu chuyện lạ lùng về con cọp quy y. Nghe kể, sau khi Sư truyền Tam qui cho cọp rồi, Ngài có làm bài kệ:

Hổ thức quy y Phật
Chánh tính vô Iưỡng dạng
Nhân tâm dữ súc tâm
Đồng nhất quang minh tạng.
Cọp biết quy y Phật,
Tính chánh nào khác dạng
Tâm thú và tâm người
Đông một quang minh tạng.

NĂM DÂN QUỐC 24 (1935) ẤT HƠI 96 TUỔI

Mùa xuân, Lý Hán Hồn được điều về miền Đông nhậm chức, việc trùng hưng thiếu người phụ giúp, càng thêm khó khăn.

Sau giới kỳ, nhận lời mời của “Đông Hoa Tam Viện” ở Hương Cảng, tôi đến đó lập Đạo Tràng Thủy Lục. Đàn tràng lập ở Giác Uyển Đông Liên. Phật sự hoàn tất, tôi quay về từ chức ở Cổ Sơn, mời Hòa thượng Thịnh Huệ làm Trụ trì, rồi đến Nam Hoa.

Công việc tại Nam Hoa

Trước tiên là tu sửa Tổ điện, xây Quan Âm Đường cùng các liêu phòng và công trình khác, phía bắc Đình Phục Hổ sau chùa (thuộc phía nam suối Trạc Tích), có ba cây bách già được trồng từ đời Tống. Cây khô ngót mấy trăm năm, tháng 11 âm lịch này, bỗng nẩy chồi mới. Thủ tọa Quán Bổn có làm bài ký về nó, cư sĩ Sầm Hoc Lữ khắc vào đá, đem đặt vào rừng bia.

Bài ký: CÂY KHÔ NAM HOA

Thích Quán Bổn ghi:

Phía sau Tổ đình Nam Hoa, ven bờ suối Cửu Long, có ba cây tùng già cao chọc trời. Một cây đoạn trên đã chết khô, hai cây kia cành lá trơ trụi, chẳng biết đã trải qua bao năm tháng rồi.

Khi Hòa thượng Hư Vân từ cổ Sơn về đây trụ trì Tổ đình, trong kỳ truyền giới mùa đông năm Ất Hợi. khách bốn phương tấp nập kéo đến, có hơn mấy trăm người. Kể từ thuở Ngài Hám Sơn (Đức Thanh) đời Minh đến trùng hưng cho tới sau này, Tổ đình nơi này bị bỏ phế lạnh lẽo đã mấy trăm năm, nay bỗng bừng bừng sinh khí, dường như sự vật cũng được cảm hoá biến đổi theo. Giữa tiết đông lạnh buÓt vậy mà cành khô bỗng nẩy lộc đâm chồi, ra lá mượt mà, tất cả ba cây đều dần dần xum xuê tươi tốt.

Nghe kể xưa kia, lúc Ngài Huyền Trang đi thỉnh Kinh ở Tây Vực, thì cây tùng cổ thụ ở chùa Linh Nham, tất cả cành nhánh đều xoay về Tây. Đến lúc Ngài gần trở về, thì cành nhánh xúm nhau quay hết về Đông. Các môn đệ của Ngài thấy vậy đều mừng rỡ reo lên: “Sư phụ sắp về rồi”. Họ bèn lên đường đi đón. Quả nhiên Ngài trở về thật. Người ta gọi nó là Ma Đảnh Tùng. Bây giờ, điềm lành đang ứng hiện đây cũng rất hy hữu nên tôi làm bài ký này.

Chuyện phụ ghi:

THÁNH HIỆU QUAN ÂM

Mùa hạ năm nay vùng Quảng Đông, Thiệu Châu bị trận lụt cực lớn. Nửa đêm nước dâng cao, cuồn cuộn chảy xiết, nhà cửa xóm làng đều bị cuốn phăng. Thôn Mã Bá có một hộ họ Vân, nhân khẩu gồm mười lăm người, trong lúc cả nhà đang chìm trong cơn hồng thuỷ ngất trời, thì bỗng nghe một em bé mới bốn tuổi cất tiếng niệm Thánh hiệu Quan Thế Âm Bồ-tát, mọi người nghe, vội bắt chước niệm lớn theo, dốc hết tâm tư chí thành cầu Bồ tát Quan Âm cứu mạng. Lạ thay, ngôi nhà của họ bỗng nổi lên mặt nước giống như chiếc thuyền, nhà đang trôi băng băng giữa giòng nước xiết cuồn cuộn thì bỗng gặp một cây đại thọ ngáng lối, mọi người vội bám vào, khi họ đã leo hết lên cây thì ngôi nhà liền chìm ngay xuống. Tới hồi nước rút, cả nhà đồng đến chùa Nam Hoa dâng hương bái tạ và kể cho tôi nghe câu chuyện kỳ lạ này.

Phụ lục: CHUYỆN CON CHỒN

Thích Quán Bổn ghi:

Năm Dân Quốc 25, Bính Tý. Sau khi Nam Hoa đã mở Đại giới đàn, truyền ba đàn xong. Lúc sắp giải giới, thì Lâm Quốc Canh (Đoàn trưởng Sư đoàn 16 đang đóng quân tại Tào Khê) đến thăm, tay xách cái lồng, trong nhốt một con vật, toàn thân trắng tuyết, điểm lấm chấm đen, lông mướt rượt, mõm nhô, đuôi dài, đích thị là một con chồn. Đoàn trưởng nói:

– Con vật này có lý lịch ly kỳ lắm, mới đầu nó bị thợ săn ở núi Bạch Vân, Quảng Châu bắt được. Người ta kể rằng: “Khi phá bức tường thành Quảng Châu để mở con đường cái thì thấy nó từ trong thành phóng ra và bị bắt”…

Bạn tôi mua nó với giá 40 đồng, tính đem về nấu ăn cho bổ và khoái khẩu… nhưng nhìn thấy mắt nó linh động, long lanh, có vẻ hiểu được ý người nên ông ta không nỡ làm thịt, bèn nhốt lại và đem bán cho Vườn Sở Thú Quảng Châu. Rồi sau đó, khi khổng khi không ông ta bị bắt, bị tống vào tù mà không rõ nguyên do tội trạng, án cứ lưu như thế mãi mà không ai giải quyết.

Tình cờ, vợ ông ta tham dự một buổi cầu cơ, chưa mở miệng hỏi gì thì đã thấy quẻ chạy, đề cập đúng chóc điều bà đang thắc mắc trong lòng và giải thích rằng ông nhà hiện đang bị nhốt, là do chiêu cảm quả báo của việc bán con chồn cho sở thú giam giữ, còn chỉ cho bà rằng hiện có bậc cao tăng đang chủ trì hoằng hóa tại chùa Nam Hoa, hãy đem con chồn đến đó phóng sinh thì người chồng ắt sẽ được thoát nạn…

Bà vợ giật mình cả kinh, vội đem tiền chuộc con chồn. Do Lâm Đoàn trưởng là bạn thân của chồng bà, sẵn dịp ông đang đóng quân ở Tào Khê nên bà nhờ ông mang con chồn đến chùa phóng sinh giùm”.

Ngài Hư Vân nghe kể chuyện, liền thu nhận con chồn. Ngài thuyết Tam qui Ngũ giới cho nó xong thì thả nó ra khu rừng rậm phía sau chùa.

Hằng ngày, nó đều vào chùa để Tăng chúng cho ăn. Từ khi thọ giới xong, nó không chịu ăn thịt nữa, chỉ ăn chay và rất thích ăn trái cây. Những người thợ xây chùa muốn trêu chọc nó, họ nhét thịt vào chuối đưa cho nó ăn. Con chồn khi biết mình ăn nhầm liền nhổ ra. Nó dùng móng chân trước cào vào thức ăn, kiểm soát mấy lượt, nhìn tới nhìn lui, mắt lườm mấy ông thợ, tỏ vẻ giận dữ bất bình, vì họ đã dối gạt nó. Sau đó nó bỏ đi thẳng suốt mấy ngày mà không trở về.

Một hôm, do bị người trong làng đuổi bắt, nó leo lên một ngọn cây cao chót vót ngót mấy chục trượng, ôm cành kêu khóc. Chú Sa-di thấy vậy vào bạch với Phương trượng. Ngài Hư Vân liền đi ra đến dưới gốc cây đứng nhìn lên. Vừa thấy Ngài, con chồn liền tuột xuống, đeo ngay vào tay áo Ngài, vẻ rất mừng rỡ. Hòa thượng đem nó về. Sợ nó bị người rình bắt, Ngài đóng cho nó cái chuồng. Sau đó khi thả ra, nó chỉ đi quanh quẩn trong chùa, không vào rừng nữa.

Một hôm, ông Tưởng đi cùng mười lính hầu đến thăm chùa nhưng không báo trước. Họ vừa đến cổng Tào Khê thì thấy con chồn, thị vệ định bắn nhưng ông Tưởng ngăn lại. Chồn lúc lắc đầu, ve vẫy đuôi, dắt ông Tưởng đi vào. Đến Đại điện, nó chạy như bay vào Phương trượng, cắn áo Hòa thượng kéo xuống lầu gặp ông Tưởng. Nghe kể chuyện nó, ai cũng cười.

Mỗi khi Hòa thượng ngồi thiền, chồn thường nằm dưới thiền sàng. Thấy Hòa thượng nhắm mắt ngồi lâu quá thì nó bắt đầu táy máy, kéo râu Ngài đùa nghịch. Hòa thượng mở mắt nhìn nó. bảo:

– Con có linh tánh, chớ vào rừng, đừng ra ngoài sơn môn tới gần nhà người mà bị bọn trẻ quấy phá!

Một hôm, chẳng biết nó đi đâu mà bị xe cán trọng thương, nằm nhẹp, không đứng dậy nổi. Thấy Hòa thượng đến thăm, nó ráng chìa vết thương ra cho Ngài xem. Hòa thượng biết không cứu được, thương nó đau đớn, bèn khai thị: “Cái túi da này, không đáng để lưu luyến nữa! Con đừng bám víu vào, hãy buông xả và sám hối tất cả nghiệp duyên quá khứ. Khởi một niệm sai thì phải đọa, phải nhận lấy ác báo, chịu nhiều thống khổ. Giờ đây, quả báo của nghiệp xưa đã mãn, ta mong con nhất tâm niệm Phật, để sớm được giải thoát”.

Chồn hiểu ý, gật gật đầu, kêu lên mấy tiếng, rồi tắt hơi. Thi thể nó để hai ngày vẫn không biến đổi. Hòa thượng nhớ đến câu chuyện “Tổ Bách Trượng độ chồn hoang”, nên cho tổ chức tang lễ nó như một vị Tăng, chôn nó ở phía Nam núi.

VIỆC CẦU ĐẢO LINH ỨNG TẠI LINH TUYÊN

Thích Duy Nhân ghi:

Vùng đất thuộc lãnh địa Tào Khê Tứ Thiên Vương, đều thuộc về chùa Nam Hoa. Trải qua các triều đại, các vua, quan hộ pháp… đều cấm không cho chôn cất phần mộ gần chùa. Các thầy địa lý cũng công nhận rằng vùng đất này linh khí đã có chủ, nếu chôn hài cốt, không những gây bất lợi cho con cháu mà còn làm hư đất danh lam thắng cảnh, gây tổn hại cho hai bên. Vì vậy vùng long mạch phía sau chùa, xưa nay không hề có thầy địa nào bảo người đến đây an táng.

Năm trước, trong thôn Toán Khê, có nhà nọ lén đem hài cốt thân nhân đến mai táng tại núi Tượng Sơn phía sau chùa, khiến dòng suối Trạc Tích đột nhiên hóa khô cạn. Việc này được quan huyện Khúc Giang là Diệp Chấn Đông đến tra xét, dù đã bắt bên chôn lén dời mộ hốt cốt đi rồi, nhưng suối vẫn cạn khô như cũ. Ngài Hư Vân thấy việc này ảnh hưởng trầm trọng đến nguồn nước cần dùng của chùa, nên ra đến bên suối, âm thầm cầu nguyện, suối liền chảy lại.

DÂN QUỐC 25 (1936) BÍNH TÝ – 97 TUỔI

Mùa Xuân, mở Giới đàn và tu sửa các ngôi điện vũ, công việc dần dần hoàn thành. Chủ tịch nước là ông Lâm Tử Siêu, Viện trưởng Viện Hành Chính là Tưởng Trung Chính v.v… đều đến Nam Hoa hỗ trợ việc trùng tu Đại điện, ông Tưởng ở lại phụ giúp công trình đào sông mới. Thế nhưng, người chưa nhọc nhằn đổ công, thì thần hộ pháp đã ra sức hoàn thành giúp cho.

MƯA LỚN ĐẮP ĐÊ

Dòng sông Tào Khê xưa nằm cách mặt tiền chùa 140 trượng, bờ đất lâu năm không được bồi đắp, bị xói mòn trầm trọng khiến dòng nước đổi sang hướng Bắc, thế chảy như đâm thẳng vào chùa, nhìn rất phản cung cách.

Mùa hạ năm Bính Tý (Dân Quốc thứ 25), ngài Hư Vân dự tính sẽ sửa lại, để chuyển hướng sông cho thích hợp, nghĩa là sẽ đắp đất, bồi bờ, sửa cho hướng sông thành chảy ngang trước chùa và bờ sông phải nằm cách chùa 840 trượng. Như thế bắt buộc phải lấp dòng cũ, đào đường chảy mới cho sông, công trình này cần khoảng ba ngàn nhân công, phí tổn tính ra rất lớn.

Ngài Hư Vân đang lên kế hoạch để tiến hành, thì ngay trong đêm 20 tháng 7, trời bỗng đổ mưa to, suốt đêm nghe như có tiếng hàng vạn con ngựa chạy. Sáng ra, thế nuớc chảy tràn đã xẻ đất, tạo thành một dòng chảy mới, khiến con sông nằm ngang theo hình chữ nhất giống y như ý ngài Hư Vân dự tính. Còn chỗ dòng cũ thì đá sỏi đã bồi lấp cao đến mấy thước, thành một bờ thẳng hình chữ nhất nằm trước chùa. Đây là việc hết sức kỳ lạ vậy.

DÂN QUỐC 26 (1937) ĐINH SỬU – 98 TUỔI

Giới đàn mùa Xuân hoàn tất, tôi nhận lời mời của cư sĩ Lâm, đến Tuệ Viên giảng Kinh. Bấy giờ Phật sống Tây tạng là Vinh-tăng-kham-bố cùng La-các-cánh-tang v.v… hơn mười người đến qui y. Chư tăng Phật Sơn cùng các vị Phật tử ở đấy mời tôi đến khai quang Bảo tháp chùa Nhân Thọ.

Sau khi trở về Nam Hoa, tôi sửa sang các ngôi kiến trúc và xây cất các công trình.

Đại sự năm này:

-Ngày 7 tháng 7, quân Nhật đánh úp Lư Câu Kiều, quân ta rút khỏi Bắc Bình.

-Tháng 12, Nam Kinh bị vây hãm. Chính phủ Quốc Dân dời đô sang Trùng Khánh.

DÂN QUỐC 27 (1938) MẬU DẦN – 99 TUỔI

Sau Giới đàn mùa xuân, tôi đến Tuệ Viên giảng Kinh. Giảng xong, tôi đi Hương Cảng lập Pháp Hội Đại Bi tại Đông Liên Giác Uyển, cuối thu thì về lại Nam Hoa.

CHUYỆN LẠ Ở QUẢNG CHÂU

Mùa hạ này tôi đến Quảng Châu, cư sĩ Trần Bồi Căn có một tòa nhà mới ở đây. Do ông ra nước ngoài nhậm chức nên đem hết gia quyến theo, chỉ chừa lại một nguời trông nhà và thỉnh tôi ngụ tạm nơi Phật Đường trên lầu. Ngày nọ, có mấy mươi chiếc phi cơ Nhật bay liệng ném bom, khiến mấy chục tỏa lầu chung quanh đều bị cháy thành tro bụi, người chết vô số. Chỗ tôi ở cửa kính cũng bị chấn động vỡ nát, nhưng toàn bộ ngôi nhà thì không sao, tôi và người quản gia đều bình an vô sự.

Sau tai nạn này, báo chí xôn xao đăng ầm chuyện hai anh họ Lý và Hứa – vốn là đôi bạn đồng nghiệp đồng chí thân thiết.

Rồi anh Lý chết, bỏ lại vợ trẻ con thơ. Hứa mai táng bạn chu đáo và ra sức đùm bọc chu cấp vợ con anh Lý như người thân của mình.

Được mười năm, bỗng một ngày nọ Hứa gặp anh Lý giữa đường, Lý vui vẻ mời Hứa vào quán uống nước. Hứa kinh ngạc nghĩ thầm: “Anh bạn này của mình đã chết rồi, không hiểu vì sao hôm nay lại đến đây?” Lý hiểu ý, bảo:

– Anh đừng sợ, anh là người phúc đức lại có ân đùm bọc vợ con tôi bấy lâu. Vùng anh ở sắp bị hỏa tai, tôi giữ nhiệm vụ ghi tên những người bị nạn vào sổ, thấy số người chết rất nhiều, nhưng cả nhà anh lại không có tên trong danh sách tử nạn. Vì vậy, tôi đặc biệt đến báo tin để anh lo thu xếp, kịp dời gia đình đi nơi khác, tai nạn sẽ xuất phát từ hướng Đông!

Nói xong, Lý trân trọng từ biệt. Hứa thấy bạn mình đi nhanh như gió, chớp mắt không còn thấy đâu nữa.

Trong lòng dù bán tín bán nghi, nhưng Lý vẫn dời gia đình đi lánh nạn. Mấy ngày sau tai họa xảy ra, khu vực Lý ở (gần bên chỗ tôi) quả nhiên bị lửa thiêu rụi.

Chứng kiến sự việc này, mới hiểu chuyện sống chết không phài la ngẫu nhiên, báo ứng rất nhanh, như âm vang theo tiếng, thật chính xác và đáng tin vậy.

DÂN QUỐC 28 (1939) KỶ MÃO – 100 TUỔI

Trong Giới đàn mùa xuân, đa số các tĩnh đều bị binh biến, người đến chùa xin thọ giới càng đông. Tôi đề nghị:

– Trong cuộc chiến chóng Nhật: dân, binh bị thương, tử vong rất nhiều. Đã là Phật tử, mỗi người nên phát tâm, lập đàn lạy sám hối ngày hai thời, cầu cho kẻ còn người mất tiêu dứt nạn tai. Mọi người trong tỉnh cũng nên tiết giảm, nhịn bớt bữa ăn chiều để dồn lương thực, phụ giúp cho quốc gia.

Mọi người đều tán thán, làm theo.

Đại sự năm này:

– Ngày mồng 1 tháng 9, Đại chiến Âu Châu bộc phát. Đời gọi là Thế giới chiến thứ hai.

DÂN QUỐC 29 CANH THÌN (1940) 101 TUỔI

Sau Giới kỳ mùa xuân, Quảng Châu bị vây hãm, hai cơ quan chính quyền và dân quân đều dời về Khúc Giang. Tăng sĩ các nơi cũng đổ dồn về đây ngày một đông, tôi bèn trùng tu chùa Đại Giám ở Khúc Giang cho làm Hạ viện Nam Hoa để tiện qua lại và lo sửa chùa Nguyệt Hoa để tiếp đón chúng Tăng.

DÂN QUỐC 30 (1941) TÂN TỴ – 102 TUỔI

Lo Giới đàn mùa xuân xong, tôi đốc thúc hoàn thành công trình xây dựng các ngôi tự viện. Công việc mười phần đã xong được tám, chín. Tôi gom những phẩm vật đàn việt và đệ tử biếu riêng cho mình từ suốt hai năm qua (trị giá khoảng hơn hai trăm ngàn đồng), giao cho chính phủ tỉnh Quảng Đông dùng vào việc chẩn tế, chẳng hề giữ riêng chút gì, bởi Khúc Giang đang thiếu lương thực, người dân bị đói rất đông.

Mùa thu năm này Khúc giang thành lập Hội Phật Giáo Quảng Đông, cử tôi làm Trưởng trị sự, cư sĩ Trương Dư Khiêm làm Phó.

Đại sự năm này:

– Tháng 12, chiến tranh Thái Bình Dương bộc phát.

– Quân Nhật tấn công, vây hãm Hương Cảng, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân và Ngưỡng Quang v.v…

DÂN QUỐC 31 NHÂM NGỌ (1942) 103 TUỔI

Trong Giới đàn mùa xuân năm này, có câu chuyện lạ về vị Tăng xin thọ giới. Giám viện Quán Bổn đã ghi lại câu chuyện đó.

THƯỜNG NHỤC CẦU GIỚI

Thích Minh Nhất ghi:

Con đường dẫn vào cổng chính chùa Nam Hoa (Tào Khê), bên cạnh Ao Phóng Sinh mới đào, có một cây Chương cổ thụ (Long não), cao chọc trời, đường kính rộng cả trượng, chẳng biết đã trải qua bao năm tháng rồi, dân chúng thường mang rượu thịt đến đây tế lễ.

Mỗi năm vào tháng hai và tháng tám, tức ngày Lễ vía Tổ Sư, dân chúng chiếm hết bốn bên, bày hàng rượu thịt. Dân làng đến dự lễ chỉ thấy cảnh cắt tiết tế thần, chẳng hề biết nơi đây là đạo tràng khai sơn của Nam Tông.

Ngay từ đời Minh, năm Canh Tý, niên hiệu Vạn Lịch (1573-1616), khi ngài Hám Sơn đến trụ tại Tào Khê, đã chứng kiến cảnh mấy ông Tăng phi pháp chiêu tập dân du côn bốn phương tụ hội, bài bạc, giết chóc, ăn nhậu, trai gái… nhưng không cách chi sửa đổi, cải thiện họ được.

Đến năm Dân Quốc thứ 23, Giáp Tuất (1934), Tướng quân Lý Hán Hồn mời Hòa thượng Hư Vân ở Cổ Sơn đến trùng hưng chùa Nam Hoa. Khi Sư đến, tận mắt chứng kiến cảnh bê bối, đồi trụy, hôi tanh nơi đây, Ngài thề là sẽ quét sạch. Sau đó Ngài chiếu theo Thanh quy, cấm không cho đem rượu thịt vào sơn môn, nghiêm dạy, khuyên răn, cắt người kiểm tra và xin quan địa phương ban lệnh cấm. Dưới gốc cây Chương, Sư cho lập một đền thờ Thổ địa trấn tại đó. Phải mất mấy năm, tình hình bê bối này mới dứt, xua tan được ác phong.

Năm Nhầm Ngọ (1942), trong kỳ truyền giới mùa xuân, bỗng có một hành giả đến xin thọ Tỳ kheo. Hỏi tên, ông xưng họ Trương, hỏi quê quán thì đáp là người Khúc Giang, hỏi tuổi thì bảo là 34, Hỏi Thầy thế độ thì thưa không có. Hỏi ba y, bình bát… các thứ… có đủ chưa? Ông đều đáp là không. Thấy ông ta có tâm chí thành thiết tha cầu giới, Sư chấp thuận và ban pháp danh cho ông ta là Thường Nhục.

Trước khi thọ giới, ông làm việc phục dịch rất siêng năng. Hằng ngày sốt sắng quét dọn khắp đường đi, hành lang… trong chùa, không chút biếng lười. Tính ông ưa im lặng, chẳng nói, cười với ai. Khi vào Đàn thọ giới, việc việc đều răm rắp làm theo luật. Đến lúc ba đàn truyền viên mãn, thọ giới Bồ Tát xong, thì không thấy ông đâu nữa. Cà-sa, y bát, giới điệp gì… thảy đều bỏ lại Giới đường. Tìm kiếm khắp nơi vẫn không thấy ông, lâu ngày mọi người quên bẵng đi.

Mùa xuân năm sau, Quí Mùi (1943), khi sắp mở Giới đàn, Thường Nhục bỗng đến báo mộng, xin Sư cho lãnh Giới điệp năm rồi. Sư trách, hỏi:

– Ông trụ ở đâu?

Ông ta thưa: – Con không có chỗ ở.

Sư hỏi: – Vậy hiện giờ đang ngụ tại đâu?

Ông đáp: – Con ở ké Thổ địa.

Khi Sư thức giấc vẫn còn nhớ rất rõ, biết là Thần cây Chương già đã đến cầu giới, bèn tới đền thờ Thổ địa dưới gốc cây Chương, thiết lập miếu thờ, đốt Giới điệp gởi cho Thường Nhục rồi trở về.

Từ hạ đến thu, Sư sửa Vô Tận Am cho chư Ni ở. Chùa Đại Giám mới hoàn thành, công trình Nam Hoa chưa xong mà Cổ Sơn lại có việc phải lo, việc đời việc đạo xảy đến tới tấp, còn thêm cảnh phi cơ Nhật bay lượn quanh Nam Hoa quấy nhiều.

Chuyện phụ ghi: NHẬT DỘI BOM

Thành Huệ Châu bị vây, tòa Tỉnh trưởng phải dời về Khúc Giang. Các vị chức sắc chính phủ thường đến Nam Hoa. Địch dò xét theo dõi và cho rằng các các vị này mượn chùa làm chỗ hội họp.

Vào một ngày tháng bảy, do thấy có nhiều nhân vật đến chùa nên tám chiếc phi cơ của Nhật cứ lượn quanh thám thính, không bỏ đi. Sư thấy vậy, bèn lịnh cho chư Tăng trở về Tăng Đường, sắp xếp cho quan khách vào nhà Tổ hết, một mình Sư lên chánh điện thắp hương ngồi tĩnh tọa.

Chẳng bao lâu, phi cơ địch bay tới hạ thật thấp, rồi nhắm ngay chùa thả xuống một quả bom lớn. Thế nhưng bom lại rơi vào khu rừng ven sông (nằm phía ngoài chùa) nên không ai bị thương tích gì. Còn phi cơ địch thì cứ quần tới lượn lui, rốt cuộc có hai chiếc tông vào nhau, khiến người chết và phi cơ vỡ nát, rơi xuống vùng Mã Bá, cách chùa 40 dặm về hướng Tây.

Từ đó, nếu có việc phải bay từ Nam ra Bắc thì phi cơ Nhật cũng bay đường vòng chứ không còn dám bay ngang chùa hay léo hánh lượn gần chùa.

Tháng 11, mùa đông, ông Lâm (Chủ tịch chính phủ) cùng các Bộ trưởng chính phủ Trung ương, phái cư sĩ Khuất Anh Quang, Trương Tử Liêm đến chùa, thỉnh tôi đến Trùng Khánh, lập đàn cầu tiêu tai.

Ngày mồng 6 tháng 11 tôi lên đường đến Hoành Nhạc dâng hương. Tại Hành Dinh Quê Lâm, ông Lý Tế Thâm chủ nhiệm việc thiết trai, phái cư sĩ Hứa Quốc Trụ đến đón. Tới Quế Lâm, tôi ở núi Nguyệt Nha, tứ chúng xin qui y. Đến Quí Châu, tôi ngụ nhờ chùa Kiềm Minh, Hòa thượng Quảng Diệu mời tôi thượng đường khai thị. Đến Trùng Khánh, được phủ viện, cùng các chùa đến đón rước, có cả Lâm chủ tịch, Trưởng ban tổ chức Pháp hội là Đới Công. Sau khi bàn bạc, cùng quyết định sẽ lập Đàn tại hai chùa Từ Vân và Hoa Nghiêm.

05

“Phật Giáo là đạo cứu thế, Phật học là mẹ của Triết học. Tôn giáo là một động lực tự nhiên, rất hùng mạnh để đào tạo và duy trì dân tộc. Nhân dân chẳng thể không có tư tưởng tôn giáo. Nghiên cứu Phật Giáo sẽ thấy có những điều giúp ích, bổ túc cho những thiên lệch của khoa học”.

Nay, ông cũng cho rằng sự du nhập của Phật Giáo vào Trung Quốc giúp ích nhiều cho tư tưởng học thuật Trung Quốc nên mới nói: “Phật giáo là tôn giáo lớn duy nhất truyền khắp quốc tế, có xu hướng tiến đến đại đồng vào thời nay”… không phải là lời hồ đồ đâu. Vả lại, ngày nay tự do tín ngưỡng, chẳng thể bắt người ta mê tín, chỉ nên giúp người vui lòng mến phục mà sinh chánh tín. Bởi vì, bỏ Phật Giáo thì dân chúng biết quy hướng vào đâu?

GIẢNG VỀ QUI Y

  • Chủ Nhật 17/1/1943 A.L Quí Mùi

Tại chùa Từ Vân – Trùng Khánh

Hôm nay chư vị thọ giới, Qui y làm đệ tử Phật. Quý vị giống như sinh vào nhà đế vương, làm con cháu đế vương. Phải cố gắng tu hành, mới xứng là dòng tôn quý, hưởng được lợi ích.

Từ đây về sau chư vị phải y theo lời Phật dạy mà tu hành, phải quán muôn sự trên thế gian này là huyễn hóa. Suốt cuộc đời, con người luôn bận rộn với ba việc ăn, mặc, ở, tạo nghiệp tự trói. Do vọng niệm mà nhập thai, theo tham, sân, si mà tạo nghiệp, mọi toan tính đều nhắm vào ích lợi cho mình, lo tích lũy tiền tài cho mình và thân quyến, cả đời tất bật lo toan vì gia đình, không chút rỗi rảnh, không lối thoát, tự buộc tự trói. Cuối cùng vì vô minh mà đọa lạc.

Từ nay, quý vị phải y theo lời Phật dạy, phải ăn chay trường suốt đời, chẳng nên ăn chay tháng hay ăn chay ngày, tuyệt đối không nên giết hại loài vật để ăn. Sao lại nhẫn tâm giết vật, biến chúng thành đồ bổ dưỡng cho mình?

Quý vị hãy nhìn xem lúc quý vị giết vật, nó kêu la rất thảm thiết, luôn vùng vẫy đòi trốn thoát. Chỉ vì nó yếu ta mạnh, nó không chống cự lại nên cam đành bị ta giết. Nhưng lòng oán thù giây phút đó cao như núi, tích chứa trong tâm, nên sang đời sau hễ có dịp là báo thù. Hiện tại các cường quốc dùng vũ khí giết các tiểu quốc, cũng là mạnh hiếp yếu. Sở dĩ có chiến tranh xảy ra – là do con người tạo nghiệp sát quá nặng.

Quý vị là Phật tử, việc gì trái đạo thì đừng làm. Phật pháp không có gì lạ lùng kỳ đặc, hãy giữ tâm chân chánh, hành động luôn hợp đạo lý.

Nhiều người thấy tôi tuổi cao, mỗi lần gặp tôi thường thắc mắc hỏi dò, xem tôi có thần thông chăng? Có biết tiền kiếp hậu kiếp, tiên tri quá khứ vị lai gì chăng? Họ hỏi tôi chừng nào hòa bình? Chừng nào chiến tranh kết thúc?…

Quý vị đừng quá mê thần thông như vậy! Vì thiên ma ngoại đạo, quỷ thần đều có ngũ thông. Thật ra thần thông này vốn có đủ trong tự tánh chúng ta, nhưng đừng quá lưu tâm chú trọng nó. Học Phật pháp quan trọng là để minh tâm kiến tánh, liễu sinh thoát tử, phát tâm Bồ đề, hành đạo Bồ-tát.

Quý vị chỉ cần: “Việc ác chớ làm, chuyên làm các việc lành” theo đúng lời Phật dạy là được.

Không nên làm tổn người lợi mình, mà còn phải hi sinh mình giúp người, chân thật trì giới. Vì từ giới sinh định, từ định sinh huệ. Phải sáng trí hiểu việc, thì Qui y mới không uổng.

Quý vị hỏi về yếu chỉ Kinh Lăng Nghiêm, tôi xin nói sơ:

Kinh Lăng Nghiêm nói về hành đạo, chứng quả và trình tự của sự tu. Trong Kinh tả rõ các ma chướng. Ngài A Nan vì chúng thị hiện hỏi đạo. Phật chứng minh các pháp đều do tâm tạo.

Chúng ta luân hồi trong sáu đường, do ái dục là cội gốc. Ngài A Nan vì chúng sinh thị hiện mình tuy tu bao kiếp cũng không thoát được nạn Ma Đăng Già. Trong các tội chướng, dâm đứng đầu. Dâm nhiều thì tổn hại thân thể, nên giết hại mạng chúng sinh đế bồi bổ, rồi tội ăn cắp, vọng ngữ cùng theo đó mà sinh.

Chúng ta thường bị vọng tưởng điên đảo hành hạ, quay đến rối mòng. Hồi nhỏ khi tôi chưa xuất gia, cả ngày giao tế toàn nghĩ tưởng việc thế. Đêm đến mộng thấy cha mẹ nội ngoại thân quyến, mơ đủ việc đời. Khi xuất gia rồi, làm và nghĩ đều không ngoài Phật sự, tối ngủ mộng mị chỉ là Phật sự: niệm Phật, lễ sám v.v…

Năm thứ ngũ tân: hành, hẹ, tỏi, nén… tôi không ăn được. Vì muốn tránh sự kích thích dục niệm, dẹp những nhân phụ này cốt đế hỗ trợ nhân chánh, tinh tấn chuyên cần thì có thế thành tựu, bản thân mình phải siêng năng tự nhắc nhở mình, không nên ỷ lại vào ai khác.

Ngài A Nan là Hoàng tử em họ Phật, xả bỏ vinh hoa phú quý theo Phật xuất gia, lầm mong Phật sẽ giúp đỡ cho mình chứng đắc.

Thế nhưng, phải biết rõ là chính bản thân mình phải thực hành, tự tu tự chứng, không thể nhờ ai. Nếu quý vị không làm biếng, luôn phát tâm tinh tấn tu thì sẽ có ngày thành dạt.

Ba cõi, sáu đường đều là huyễn, đều không ngoài tâm. Tánh giác vi diệu của chư Phật cũng không ngoài tâm. Thế nên tâm, Phật, chúng sinh cả ba không khác. Đồng tử Hương Nghiêm cũng có thể là mũi chúng ta, Bồ-tát Kiều Phạm cũng có thể là lưỡi của ta. Nhân địa và cách thức tu của 25 vị Thánh trong kinh Lăng Nghiêm tuy không đồng, nhưng khi chứng ngộ vốn không sai khác.

Hiện tại những vị mới phát tâm có thể tu theo hai ngài Đại Thế Chí hoặc Quan Âm. Bồ tát, Quan Âm sẽ là Phật nối tiếp Phật Di Đà cõi Tây Phương, và ngài Thế Chí sẽ là Phật nối tiếp ngài Quan Âm. Ngài Thế Chí tu pháp niệm Phật mà chứng viên thông. Chúng ta cũng phải tu niệm Phật, thu nhiếp sáu căn, nhờ niệm Phật miên mật mà được chánh định.

Bồ tát Quan Âm nhờ Văn, Tư, Tu mà nhập chánh định. Trên đồng từ lực mười phương chư Phật, dưới vì lòng bi thương xót chúng sinh. Tùy nghi hiện thân hóa độ khiến chúng sinh nhập đạo. Trải qua vô lượng kiếp Ngài độ vô lượng, vô tận chúng sinh, bi nguyện Ngài cũng thật là vô tận. Quý vị nên học theo hạnh các Ngài.

ĐỪNG MÊ THẦN THÔNG

  • Thứ Hai, 18/1/1943 A.L Quí Mùi

Quý vị nên buông bỏ tất cả, thúc liễm thân tâm, thân là gốc khổ, tâm là nguồn tội. Bây giờ không nỗ lực tu, thì đợi đến bao giờ? Phải biết thân người khó được. Xả bỏ vọng tưởng thì tâm như như. Nếu tinh tấn tu thì lo gì không có ngày cắt đứt sinh tử.

Nho gia nói: “Từ thiên tử đến thứ dân, ai cũng phải lấy tu thân làm gốc”.

Thời nay, người ta không biết chánh trị và tôn giáo liên quan và hỗ tương nhau rất mật thiết. Chánh trị giúp sửa thân, còn tôn giáo giúp sửa tâm. Tôn giáo và chánh trị luôn song hành cùng nhau, nếu không nhờ sự hợp tác đồng nhất củaa đôi bên thì không cứu được hoạn nạn thiên tai trong đời. Hiện tại nguyên thủ quốc gia cùng chư tướng lãnh phát tâm lập Pháp Hội Đại Bi Hộ Quốc mong giải trừ thiên tai hoạn nạn cho chúng sinh – chính là ý nghĩa này.

Ngày xưa, việc tổ chức Pháp hội, lập Đàn tràng rất thường. Các vị Lạt-ma Tây Tạng gần đây hoằng pháp gần Trung Nguyên rất đông, rất được chính phủ tôn sùng kính trọng. Những năm gần đây Mật giáo thịnh hành tại Trung Quốc, vì có thể hiển nhiều thần thông. Dù vậy, nếu quý vị lúc rảnh không chịu tu, khi cấp bách mới chạy đến cầu Phật thì khó mà thành tựu.

Hư Vân tôi đi hành cước khắp nơi, các nước lân cận đều đã đặt chân tới. Tôi là phàm phu, không thẩn thông, cũng chẳng biết biến hóa. Tôi không dám ăn mặn (không ăn thịt) quá ngọ không ăn. Nhiều người không hiểu Phật pháp, ưa danh lợi, mê đắm thần thông. Nếu còn ôm vọng tưởng này, thì chẳng lạc tà cũng theo ma.

Phải hiểu Phật pháp nơi tâm, không nên hướng ngoại tìm cầu. Thần thông phát là do trình độ huân tu chứ không phải do mong cầu mà được, cứ ngóng thần thông, thiệt là đáng thương.

Hiện nay, quý vị phát tâm hành Đại Bi Sám Pháp, vì muốn hộ quốc tiêu tai nên mời tôi làm chủ Pháp hội. Xin mọi người hãy chánh tâm nhất ý, cùng lễ sám xưng tán Thánh hiệu Bồ-tát Quan Âm. Ngài có duyên với cõi Ta-bà này rất sâu, linh cảm vô cùng. Nhưng nếu quý vị không chí thành sẽ không được cảm ứng. Giữa 25 vị Thánh trong Kinh Lăng Nghiêm, Bồ-tá.t Quan Âm là chứng quả viên thông vi diệu nhất.

Ngài trình bày với Phật:

“…Con nhờ văn, tư tu nhập chánh định, ngay trong lúc nghe không chạy theo âm thanh trần cảnh, xoay lai nghe tự tính, đạt được thanh tịnh vô sinh”.

Bộ Đại Bi Sám Pháp này do đại sư Từ Minh Pháp Trí soạn, bi nguyện không nghĩ lường, cảm ứng đươc sử ghi chép đầy đủ. Từ sáng đến tối quý vị chí thành lễ lạy, năm vóc sát đất, ba nghiệp thanh tịnh ắt đoạn được tội sát, đạo, dâm, trừ được tham, sân, si chuyển nghiệp thập ác thành thập thiện. Quý vị cần phát bốn Hoằng thệ nguyện, dùng hương hoa đức hạnh tự trang nghiêm thân cho đầy đủ phước đức trí huệ. Có ích như vậy vì sao không làm? cần hành trì chân thật. Quý vị phải nhớ: Phật là trượng phu, chúng ta cũng thế.

Đời vua Khang Hy, Hòa thượng Nguyên Thông Trụ trì chùa Tây Vực, một hôm nọ thấy một vị Tăng đắp y vàng đến chùa mình, vua rất tôn kính, bảo sư Nguyên Thông ra tiếp đón. Nguyên Thông nói: – “Đây chẳng phải là Tăng, mà là con nhái tu thành tinh, có thần thông biến hoá”.

Lúc đó trời đang hạn, vua bảo vị Tăng nhái kia cầu mưa. Quả nhiên có mưa trút xuống. Vua càng thêm kính tin. Nhưng Nguyên Thông bảo: “Hãy lấy nước mưa đem so với nước tiểu con nhái”…

Kết quả, mưa và nước tiểu rất giống nhau, tà chánh phân rõ. Quý vị phải tìm hiểu năm mươi loại ma trong Kinh Lăng Nghiêm tả cho rõ ràng, để không bị mê hoặc rồi lạc vào đường tà. Phải hết sức cẩn thận.

PHƯỚC HUỆ SONG TU, TRƯỜNG TRAI

  • Thứ Ba, 19/11/1943 A.L Quí Mùi

Quý vị mỗi người phải chọn cho mình pháp môn thích hợp đế hành trì. Tu quan trọng ở thực hành.

Bất kể quý vị tu pháp nào, phải lấy việc trì giới làm căn bản. Nếu ỷ thông minh không trì giới thì lạc vào đường ma, các pháp môn tuy khác, nhưng về nguồn chỉ có một.

Tu phải phước huệ song tu. Tu mà không đoạn trừ tâm hiếu sát thì đời sau nếu không làm Thành hoàng cũng làm Thổ địa.

Tôi thấy nhiều người tu không nghiêm cẩn ăn chay, tôi thật đau lòng vì hành động này rất trái với tâm từ.

Mạnh Tử nói: -“Nghe tiếng loài vật kêu la không nỡ ăn thịt chúng”. Mạnh Tử còn nói vậy, huống nữa chúng ta là Phật tử. Sao có thể nhẫn tâm giết hại, đoạt mạng sống sinh vật để thỏa bụng mình? Ăn chút vị ngon vào miệng, qua khỏi lưỡi là hết, vậy mà vì món ăn lại tạo tội sát vô biên. Quý vị đã xuất gia thì không nên ăn thịt, là Phật tử cũng không nên ăn thịt. Quý vị đã tập tu thì nên nuôi dưỡng tâm bi. Lời tôi nói nghe không êm tai nhưng xin quý vị hãy lưu tâm, cố gắng tu hành.

PHẬT GIÁO CẦN ĐOÀN KẾT

  • Thứ Bảy, 1/2/1943 A.L Quí Mùi

Theo lời mời thỉnh của Thủ tướng chính phủ cùng chư Phật tử, tôi đến đây thuyết giảng và chủ trì Pháp Hội Đại Bi Hộ Quốc Tiều Tai. Do thời gian có hạn nên tôi không thế đến các đạo tràng khác như lời mời. Mong quý vị thông cảm.

Quý vị đều là những bậc Đại đức tu hành lâu năm. Có trình độ Phật học uyên thâm, đâu cần nghe tôi giảng. Chỉ vì quý vị nằng nặc đòi tôi phải thuyết nên tôi không thể không chìu ý, đành nói vài lời.

Hiện nay chiến tranh tràn lan trên thế giới, con người sống trong cảnh giết chóc, lửa bỏng dầu sôi, có thể nói là dân không biết nương vào đâu mà sống. May là còn có Hòa thượng Quảng Diệu hoằng pháp độ sinh ở đây.

Hôm nay chúng ta tụ hội tại nơi này chẳng phải tình cờ mà đều là có thiện duyên. Phần tôi chỉ được cái lớn tuổi chứ thật sự chẳng có gì hay ho hơn quý vị.

Sau khi thể chế Dân Quốc thành lập, chính phủ cho tự do tín ngưỡng. Di ngôn của Tôn tiên sinh được ban hành, tuyên bố rõ. Song các Tôn giáo bạn như Hồi Giáo, Thiên Chúa, Tin Lành đều được chính phủ bảo hộ, còn riêng Phật giáo lại bị cảnh phá chùa đuổi Tăng trên khắp toàn quốc, dẫu bị oan ức cũng kiếm không ra chỗ để kêu oan. Việc này quý vị hãy ngẫm nghĩ mà xem – Quả tình việc phá chùa đuổi Tăng là không đúng. Song quý vị có tự xét lại mình hay tự hỏi vì sao mà bị như thế không?

Hãy nhớ câu: “Vật gì thối rửa sẽ tự hoại, những vết thương ung thối mới sản sinh ra dòi trùng”. Hiện nay tu sĩ Phật tử phần nhiều bỏ quên trách nhiệm bổn phận, không hiểu rằng làm con Phật thì phải làm Phật sự (Hành đúng pháp). Phật sự là gì? Là tu Giới, Định, Huệ, là những việc thuộc Phật pháp. Là tu sĩ, Phật tử thì bắt buộc phải thực hành y theo giáo pháp. Nếu quý vị thật sự tu trì chân chánh, tự nhiên sẽ biết cách cảm hóa ác ma, chuyển tà thành chánh, biến kẻ nghịch thành bậc hộ pháp chân chánh đắc lực.

Hiện nay các tu sĩ phạm luật pháp làm lụy đến chư Phật, bị chính quyền tịch thu chùa, đuổi hết Tăng, Ni. Thực sự thì chùa đâu có tôi? đâu liên can gì đến những Tăng, Ni có phẩm hạnh bất hảo? Có thể giải thích rằng: -Một đảng viên tha hóa đâu liên quan đến toàn đảng – không phải là tội của toàn đảng. Nếu Tăng Ni bất hảo, chính quyền phá chùa, song nếu đảng viên bất hảo chẳng lẽ phải hủy toàn đảng hay sao? Nói thế này tôi mong tất cả hiểu rõ, để cùng nhau góp tay vào chấn chỉnh. Chớ bảo người Quý Châu chỉ cần lưu tâm tới Phật pháp Quý Châu là đủ – phải hiểu Phật giáo vốn là một đoàn thể thông nhất – quý vị không nên phân biệt, hãy như đất không phân biên cương. Quý vị nên nhớ sinh tử sự đại mà nỗ lực, tinh tấn tu, đừng để một đời trôi suông.

Phụ ghi: Các việc làm của Sư

Thư ký Duy Nhân nhắc Biên giả rằng: Khi Sư ở Trùng Khánh về chùa, do nghe đồn Sư quí đồ cổ nên các ông lớn đều mang ngọc báu cùng các bức tranh chữ đến biếu, tặng phẩm chất đầy năm rương lớn.

Lúc đi đường, Sư đem cho người ta hết. Duy Nhân hỏi thì Sư bảo: “Của không mất tiền mua mà giữ thì loạn tâm người”, rồi chẳng lưu lại một vật.

Lượt về, ven đường, Sư qui y cho hơn bốn ngàn người. Có ai cúng dường gì, Sư đều trao cho Duy Nhân giữ để sửa Tháp Hải Hội.

Tháng ba, Sư trở về Nam Hoa sửa tháp Hải Hội của Thất chúng. Khi đào đất đổ nền tháp, phát hiện một số quan tài vuông, mỗi cạnh dài một trượng sáu. Bên trong không hài cốt mà chỉ có gạch u cung, mỗi viên hơn một tấc tám, chạm nhiều hoa văn cùng chim thú, giữa có mấy chữ viết nhưng không rõ niên đại nên không thể khảo sát.

Tháng 6, Học Viện Giới Luật (để giáo hóa chúng tăng trẻ) được xây xong.

Sư còn cho mở Trường Tiểu Học Từ Thiện trong chùa Bảo Lâm để con em dân nghèo trong làng vào học.

Tháng 11 âm lịch, Tháp Hải Hội xây xong. Ông Thang Anh làm bài ký khắc vào đá.

THÁP HẢI HỘI THẤT CHÚNG CHÙA NAM HOA

  • Thang Anh ghi

Trà tỳ là một trong bốn phép đại táng cổ xưa của Ấn Độ. Khi Phật giáo được truyền sang Trung Hoa, cũng áp đụng cách này cho bốn chúng. Đời Minh rất thịnh hành, nhưng đến đời Thanh thì không dùng nữa.

Tại các Tùng Lâm Quảng Đông cũng có xây Tháp Phổ Đồng, nhưng không được lớn. Năm Dân Quốc 23 (1934), Hòa thượng Hư Vân đến trụ Nam Hoa, muốn xây một Tháp Hải hội dành cho bảy chúng và cho cất Điện Phật, Tăng Đường để chúng trì tụng huân tu, làm lợi khắp hai cõi U-Minh.

Lúc ấy, Tổ đình thì xiêu vẹo đổ nát, trăm việc hư phế chờ trùng hưng, xây dựng bao năm vẫn chưa xong. Đến mùa xuân năm Quí Mùi, nhờ cư sĩ Trịnh Tử Gia ở Triều Châu tới tài trợ phụ giúp, mới hoàn tất được hết. Và cái nhân duyên thần linh phò trợ, cảm ứng rất lạ lùng này không thể nào mà không ghi lại.

Nguyên Trịnh cư sĩ là một Đại thương gia rất giàu có ở Hương Cảng. Mùa đông năm Dân Quốc 30 (1941), Hương Cảng bị bao vây, xóm làng sinh biến, người ta thôn tính, chém giết nhau, dân chúng hằng ngày sống trong lo sợ hãi hùng. Đêm nọ, Trịnh Cư sĩ nằm mơ thấy một võ sĩ mặc giáp, cầm chày, bảo hãy đi lánh nạn và còn chỉ chỗ cho ông đi. Tỉnh dậy, lòng còn nhớ rõ như in, Trịnh vội vã kéo hết quyến thuộc lên đường. Dọc đường có gặp bao hiểm nạn, thảy đều hóa dữ thành lành cả. Y như là có Thần ngấm ngầm trợ giúp vậy. Trịnh đi được một tuần, lúc ngang qua chùa Nam Hoa, thì liền xuống xe nghỉ xả hơi. Ông đi lòng vòng quanh chùa ngắm cảnh. Khi ra phía sau chùa, tới chỗ Điện Thiên Vương, Trịnh ngước lên nhìn, mắt vừa thấy tượng Bồ-tát Vi Đà, thì toàn thân ông rúng động, bởi đây chính là vị võ sĩ đã báo mộng chỉ đường cho cho ông đi tỵ nạn. Lệ tuôn như mưa, mừng sợ đan xen trăm mối, Trịnh vội vào Phương trượng, yết kiến Hòa thượng Hư Vân, kể lễ mọi chuyện.

Sau đó, ông xin qui y, phát tâm hiến cúng tài sản để xây dựng chùa, hầu đáp tạ ân Bồ Tát đã giúp đỡ chở che. Hòa thượng thấy các ngôi Điện vũ ở Nam Hoa xây đã hoàn tất, nên bảo với ông là chỉ còn thiếu Tháp Hải Hội. Trịnh nghe xong, phát tâm dũng mãnh, lập tức hỷ cúng năm vạn. Ông còn nhanh nhẩu tình nguyện quyên góp phụ. Cư sĩ Châu Hoài Viễn nghe kể chuyện ông, cũng tùy hỷ trợ giúp hai vạn. Cư sĩ Trương Tử Liêm góp vào một vạn. Sau đó, các thiện nam tín nữ cũng lục tục đóng góp. Nhờ vậy mà đủ kinh phí xây tháp.

Tháp khởi sự xây cất từ đầu xuân Quí Mùi (1943), đến tháng chạp thì hoàn tất, nhìn rất trang nghiêm. Phí tổn tổng cộng hơn trăm vạn. Phương danh quí vị hỷ cúng được khắc vào đá.

Kinh nói: “Tùy duyên cảm khắp, không đâu không tới, nhưng vẫn luôn ngồi tòa Bồ-đề”. Phật pháp không thể nghĩ bàn, hàng phàm phu còn bị trói buộc làm sao có thể suy lường được? Trịnh cư sĩ nhờ đời trước gieo nhân thiện nên nay mới thu được quả lành. Rồi nương duyên lành này mà có được niềm tin, tâm thanh tịnh và nhờ quả thiện này mà trồng thêm thiện nhân. Vạn thiện rỡ ràng, sáng ngời Thánh trí, thế nên tôi ghi lại chuyện này để giới thiệu cho người sau vậy.

Ghi thèm:

Mùa xuân Quý Tỵ, Thang Anh xuất gia ở Hương Cảng, pháp hiệu Dung Hy.

Phụ lục: TRÙNG HƯNG CHÙA NAM HOA Ở TÀO KHÊ

  • Hư Vân ghi

Trong một mảy lông hiện cõi bảo vương, ngồi trong vi trần chuyển đại pháp luân, tận hư không, khắp pháp giới, chỗ nào mà không là đạo tràng? Một hòn đất, một hạt cát, việc gì mà không là Phật sự? Nói cho cùng thì động niệm liền trái, há có thể dùng ngữ ngôn văn tự để ghi chép? Nhưng, đời có dời đổi, cõi giới có phương hướng, đạo có ẩn hiện, việc có phế hưng. Huống chi đạo do người hoằng truyền, nhân lý mà hiển sự, muôn nối bước người trước, khai mở cho người sau, kê tục huệ mạng thắp truyền đuốc tuệ, lẽ nào không dùng ngôn ngữ văn tự để ghi?

Tào Khê là Đạo tràng của Thiền sư Đại Giám, vị Tố đời thứ 6, truyền pháp mạch Đông Sơn, mở rộng tông phong Nam Đốn. Một giọt nước Tào Khê, rưới khắp hoàn vũ. Năm tông đua nhau trổ hoa, vang vọng đến nghìn năm, dù âm thầm hay hiển lộ, thành Phật thành Tổ không biết đã bao nhiêu người. Muốn báo ân, phăng đến cội nguồn, hiển bày điểm cao tột, long trọng chuyển tải cho thế nhân, thì càng không thể không dùng văn tự để ghi lại.

Hư Vân tôi, gần trăm tuổi mới đến được Tào Khê, vì Lục Tổ ra tay quét sạch tệ trạng, tìm hiểu ghi lại những việc đã qua, nhờ túc duyên mới tiến hành sửa sang chấn chỉnh, song phải trải qua mười năm trời mọi việc mới dần dần ổn định. Phải dốc hết tâm lực, ra sức mỏi mòn, mới tạo thành quy củ nề nếp.

Mong Tăng đồ ngày sau gìn giữ được như thế này dài lâu, bảo tồn đạo tràng không làm suy thất… hầu báo đáp chút đại ân Phật Tổ, và chẳng phụ hùng tâm nguyện lực sâu dày của chư đàn việt hộ pháp. Đó là những điều mà Vân này luôn mong mỏi nơi hàng hậu lai.

Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 7 (1918), Mậu Ngọ, Vân tôi đang ở tại Kê Túc Sơn, Điền Nam. Ông Lý Căn Nguyên giữ chức Đôc Biện Quân Vụ ở Thiều Châu, lo tu sửa chùa Nam Hoa, gởi thơ đến tỉnh Điền mời tôi đến chủ trì việc này. Lúc đó do việc tôi với Kê Túc Sơn chưa xong, đành cảm tạ, từ chối.

Đến Năm Dân Quốc thứ 17 (1928), Mậu Thìn, tôi và cư sĩ Vương Cửu Linh cùng sang Hương Cảng. Lúc này Chủ tịch Quảng Đông là Trần Minh Xu đến Châu Giang, cũng mời tôi Trụ trì Nam Hoa. Nhưng trước đó, Bộ trưởng Hải quân là Dương Thọ Trang, Phương Thanh Đào, thấy chùa Cổ Sơn cần phải chỉnh lý gấp nên phái người sang mời tôi. Do Vân này buổi đầu xuất gia tại Cổ Sơn nên không thể từ chối, phải đến đó. Trải qua nhiều năm vất vả gian nan mới tạm chỉnh qui chế xong.

Đến tháng 4 năm Dân Quốc 23 (1934) Giáp Tuất, chư Tăng ở Quảng Đông như Kính Thiền, Chí Thanh, Phược Quả… đến tham lễ Cổ Sơn, than thở: “Phật pháp ở Quảng Đông suy vi đọa lạc thậm tệ, còn Tổ đình thì đổ nát”… họ muốn mời tôi đến đó trùng hưng. Tôi chưa quyết định thì ngay trong đêm, nằm mơ liên tiếp ba lần, thấy Lục Tổ giục mình về Nam Hoa. Ngày kế, tôi thuật lại điềm mộng cho mọi người nghe, ai cũng cho là hy hữu. Vài hôm sau, Lý Hán Hồn (nay là Chủ tịch phủ Quảng Đông), gởi điện thỉnh tôi đến Trụ trì chùa Nam Hoa. Mọi người nghĩ việc này ứng hợp đúng điềm mộng nên đồng thúc tôi đi, tôi xin ông Lý ba điều:

  1. Mong rằng chùa Nam Hoa, đạo tràng của Lục Tổ vĩnh viễn là chốn Tùng lâm mười phương cho Tăng chúng ở.
  2. Xin kêu gọi những con cháu sơn môn từng trú đóng trước đây đồng ý nhượng giao và ra ngoài ở, chứ không ép buộc.
  3. Những tài vật thuộc chùa sở hữu, từ việc xuất nhập, thanh lý sản nghiệp, giao thiệp, tranh tụng… đều do thí chủ phụ trách.

Nếu như ba điều này được chấp nhận thì tôi sẽ đến đấy xem xét. Ông Lý đánh điện trả lời ưng thuận và cử bí thư Ngô Chủng Thạch qua Hương Cảng, Quảng Châu… đi cùng với đoàn tu sĩ, Phật tử… hơn mười người đến Cổ Sơn rước tôi.

Tôi đến Quảng Đông, thăm Tào Khê, lễ Tổ Đình, xem xét hình thể, địa thế. Thấy chung quanh đều bị vây bít, hướng Bắc nhìn chẳng hợp cách, nên bảo ông Lý rằng:

– Việc này phí tổn rất lớn, kéo dài dằng dai, bần tăng sức lực mỏng manh, e khó đảm đương chu toàn. Lý hỏi:

– Nghĩa là sao?…

Tôi đáp:

– Chùa này là Tổ đình nổi tiếng trong thiên hạ, mà nay tàn phế thế này, chẳng thể trùng tu một lần mà xong hết. Muốn thiết lập lại cho có trật tự, làm cho đúng pháp, chỉnh chu… thì công trình này chưa kế là phải kéo dài nhiều năm, mà sở phí tôn có đến mấy mươi vạn kim, e khó bề lo nổi, bần đạo làm thê nào mà lo liệu, an bày đây?

– Ngài ráng nhận đi, con sẽ tận lực lo phụ…

Thế là bản thiết kế được phác họa để tham cứu. Tôi vì quý trọng Tổ đình nên phải hứa nhận. Lúc ấy là ngày mồng 2 tháng 8, năm Dân Quốc 23 (1934), nhằm ngày Thánh đản Tổ Sư.

Sau đó tôi từ chức ở Cổ Sơn, cúc cung tận tụy tiến hành công việc nơi Tổ đình Tào Khê. Trước hết phải đo lường hình thể toàn núi.

Đầu niên hiệu Thiên Giám nhà Lương, Tôn giả Trí Dược – Tổ khai sơn Tào Khê – cho xây ngôi Bảo Lâm Thiền Tự, nền móng này xưa nằm bên mé tả, giờ thuộc bên dưới Tịnh xá Nam Hoa. Đến năm Nghi Phụng đầu tiên (676), nhà Đường, lúc Lục Tổ đến đây thì chùa đã trải qua 170 năm. Lúc đó ngôi chùa cũ đã hư nát, vùng núi này thuộc về tài sản riêng của họ Trần. (Bấy giờ, phần mộ ông bà của Trần Á Tiên đang an táng bên hữu chùa) Lục Tổ muốn khôi phục lại chùa cũ, Ngài cảm được Tứ Thiên Vương xuống phân định ranh giới, Trần Á Tiên xin cho họ giữ lại phần mộ (còn bảo tồn đến ngày nay). Do vậy mà khi Lục Tổ xây chùa, thì ngoài tường chùa là mộ tổ Trần Á Tiên. Phía hữu mộ là đầm Rồng (Lục Tổ đã hàng phục con rồng và nó bỏ xác tại đây). Tổ định lấp cái đầm này để làm Tăng Đường. Nhưng việc tiến hành chưa được phân nửa thì Tổ đã nhập diệt. Sau đó, đệ tử phụng thờ nhục thân Ngài, cho xây tháp trước mộ tổ Trần Á Tiên. Mới đầu vì là tháp cây nên chẳng thể làm cao. Đến đời vua Hiến Tông, năm Nguyên Hòa thứ 7 (813), vua ban thụy Tổ là Đại Giám Thiền Sư, tháp tên Nguyên Hòa Linh Chiếu, đặc cách cho tu bổ và bài trí lại.

Đến đời vua Tống Thái Tông, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc năm đầu (974), vua ban chiếu truyền xây ngôi tháp mới 7 tầng cho Tổ (Sự thay đổi này có ghi vào bia). Tên tháp mới này là Thái Bình Hưng Quốc. Từ đó về sau, dù tháp có trải qua nhiều lần tu sửa, vẫn theo nền cũ. Người sau quan sát thấy tháp cao ngất, đè lên mộ tổ của Trần Á Tiên (không rõ sự thật về chuyện đã qua).

Nhưng căn cứ vào hình thể mà nói thì toàn ngôi tháp đè lên phía tay hữu của chùa, làm trở ngại sự co dãn – nên cả trăm phòng con cháu, đến đời Minh chỉ còn hơn mười phòng.

Đọc sơ Nam Hoa Sử Lược, Vân tôi chẳng thể xếp sách, thở dài mãi. Mùa thu, năm Canh Tý – Vạn Lịch thứ 28 (1601), Ngài Hám Sơn Đức Thanh, khi đến đây trùng hưng Tổ đình, muốn lấp đầm Rồng, nên đã thống nhất vị trí phương hướng các ngôi kiến trúc lại, thu lại hướng núi chánh… Ngài làm ngót tám năm, công trình mới tiến hành được một nửa thì gặp ma sự phải bỏ đi. Sau đó, tuy Ngài có trở lại nhưng không lâu lại viên tịch.

Đọc Mộng Du Tập, Thệ Nguyện văn… Ngài Hám Sơn viết hy vọng hàng hậu bối sẽ trùng hưng, hoàn thành tâm nguyện ấy giúp Ngài… tính đến nay đã 300 năm rồi.

Vào niên hiệu Khang Hy đời Thanh, chùa tuy có được Bình Nam Vương Thượng Khả Hỷ trùng tu lại, song theo nhận xét của các nhà nghiên cứu địa lý thì hồ Rồng được lấp kín, toàn bộ Điện Đường chùa được dời qua bên hữu mộ tổ Trần Á Tiên. Còn Bảo tháp Linh Chiếu thì trấn ngay tay tả của trụ chùa. Thêm nữa, suối Trạc Tích phun ra từ miệng voi, nằm ngang sau núi là răng voi nên chùa chủ tựa vào núi.

Từ khi ngài Hám Sơn bồi đắp đến nay, trải qua nhiều người tu sửa, họ chẳng khảo sát mạch núi, không lưu tâm đến thế tựa núi của chùa, để dòng chảy nơi cầu Phi Tích mặc tình đâm thẳng vào sau chùa, đây là điều tối kỵ thứ nhất.

Bên hữu đầm Rồng có một gò nhỏ, hình dạng giống mũi voi, liên hệ đến gò Bạch Hổ trong chùa, song gò này bị đào đứt nhiều chỗ, bao quanh không kín, thiếu sự che chở. Đây là điều tối kỵ thứ hai.

Phía ngoài, con đường Toán Khê trũng như thung lũng và bị đào khuyết gây lõm nhiều chỗ, hứng trọn gió bấc mà không có rừng cây ngăn che. Đây là điều tối kỵ thứ ba.

Còn phía trước và sau chùa, thế tựa chẳng được chánh. Ngày trước, lối vào sơn môn (tức chỗ cây Chương cổ thụ phía Tây khu rừng hiện nay) ở đó có cái hố rất sâu, (hiện giờ là cổng trước Tào Khê), đã vậy còn thêm dãy mồ mã gò nổng nằm ngổn ngang (do chôn cất bừa bãi), cảnh lộn xộn lồi lõm nhìn rất chướng mắt – cõi u hay Minh đều bất an. Đây là điều tôi kỵ thứ tư.

Cái giếng La Hán ở dưới Lầu Vân Hải thuộc phía tây Điện Thiên Vương cũ, bên hữu giếng có một gò cao chạy quanh co vòng vèo đến cổng Điện Thiên Vương tạo thành thế Bạch Hổ vỗ bụng. Đây là điều tôi kỵ thứ năm.

Còn núi lớn mặt sau chùa, tuy gọi là Song Phong nhưng thực chất rất yếu – vì thế tựa của chùa chẳng chánh – lại lấy phần lõm khuyết làm lưng, khiến con cháu ngày càng suy vi.

Lúc Vân tôi đến Tào Khê, phòng ốc có 5 ngôi mà con cháu sơn môn trụ chẳng được mười. Vì họ chẳng ở trong chùa, ai cũng có gia đình. Họ thường trú trong làng, lo trồng tỉa, cày bừa và chăn nuôi, sống hệt như người thế tục. Ngay cái chức tăng Hương đăng trông nom Điện Tổ, là người do dân làng cử đến. Mỗi năm vào (tháng 2 và tháng 8) giỗ Tổ, nếu có thu nhập gì thì dân làng quản hết. Họ giết mổ, ăn uống, cờ bạc, hút sách, phóng uế bừa bãi, đất đầy phân người lẫn phân thú, hơi thối xông nồng nặc đến nỗi ai đi qua đây cũng phải bịt mũi. So với tình trạng thời ngài Hám Sơn mô tả, còn kinh khủng hơn nhiều.

Đức Lục Tổ – Thiền sư Đại Giám – của chúng ta, bậc được tán tụng là Đạo ngang nghìn Phật, Đức trùm hàm linh, chiếu soi đời sau đến vô cùng. Vậy mà ngay nơi Đạo tràng thờ nhục thân Ngài (là chốn gương mẫu tiêu biểu), chưa đầy trăm năm đã bị suy tàn đến thế! Tuy nói dự tính của người khó thể bảo tồn, nhưng chính địa hình bất lợi cũng gây ảnh hưởng cực kỳ quan trọng. Vì vậy chuyện khảo sát về âm dương, sông suối, chẳng phải là hư vọng.

Tôi xem xét xong xuôi, mới bàn với ông Lý, trước phải định hình thế, vẽ họa đồ, rồi khai triển rộng ra. Ông Lý cùng ông Ngô, lo chôn đá đánh dấu ranh giới nền chùa, ấn định khu vực rừng, khuôn viên chùa… Đất núi có 500 mẫu, giao cho chùa kiến trúc. Vân này không thể không dốc hết tâm sức để thực hiện, chương trình đã hoạch định.

Khi Vân tôi đến núi, trừ Điện Tổ, Bảo tháp, am Tô Trình… là còn nguyên, nhưng Đại Điện, Lầu Kinh, Phương Trượng, Tăng Đường, đều mục nát hư hoại hết… vì không còn chỗ cho chúng ở, nên phải dựng tạm 20 ngôi nhà tranh để làm nhà khách và chỗ ăn uống, nghỉ ngơi cho thợ thuyền, tu sĩ, Phật tử…

Trước khi trùng tu Điện Tổ, cái khám cây (Tổ ngồi) trong điện, do trải qua nhiều năm, bị mối ăn hư hết, nên phải thỉnh Thánh tượng, nhục thân của Tổ ra ngoài để làm cái mới (theo kiểu tháp vua A Dục), tức là làm một cái khám cho Tổ ngồi, còn bốn bên phía ngoài thì dựng tượng bốn vị đệ tử Tổ như: Nam Nhạc, Thanh Nguyên, Pháp Hải, Thần Hội cho đứng hầu bốn bên.

Nam Nhạc và Thanh Nguyên là hai vị đệ tử thượng thủ lúc Tổ còn sinh thời (năm tông phái Thiền cũng từ hai Ngài mà lưu xuất). Pháp Hải là vị đã biên chép quyển Pháp Bảo Đàn, còn Thần Hội là người đại chấn Đốn giáo tại Hoạt Đài (tương tự như bốn vị Thánh bên đạo Khổng vậy).

Ngoài ra, hai bên Điện Tổ tôi cho xây Đông Hiền Điện, Tây Hiền Điện, dựng tượng chư vị Tổ Sư có công với đạo, thuộc năm Tông (giống như 72 vị hiền triết bên cửa Khổng). Tào Khê là quê hương của Thiền môn, nên đầu tiên phải định danh, định vị lại cho rõ ràng. Trước Điện Tổ, bên tả thờ Thánh Phụ, Thánh Mẫu (song thân Tổ), bên hữu thờ thần Già Lam. Giữa có đặt Tửu đình của thị giả Linh Thông (không phải để thờ, mà là ghi lại việc đương thời ngài Hám Sơn đã cấm tuyệt không cho Linh Thông uống rượu nữa và khuyên ông gắng sức thêm).

Còn nhục thân ngài Hám Sơn (trước đây tuy được đặt trong tháp Linh Chiếu), nhưng tượng đồng Bồ-tát Quán Âm cao một thước tư, lại đặt phía sau ngài Hám Sơn, sắp vậy là không đúng! Riêng nhục thân ngài Đan Điền, trước đây đặt ở chái Đông điện Tổ, chỗ này lại bị trưng dụng làm chỗ trú binh, lâu ngày dơ uế không chịu được. Tôi cho xây Báo Ân Đường, trước thờ song thân Lục Tổ. Còn hai bên khám Tổ tôi cho xây thêm hai khám nữa, để thờ ngài Hám Sơn bên tả và thờ ngài Đan Điền bên hữu. Còn xây thêm Điện Già Lam để thờ thần Già Lam. Nhóm thị giả của Linh Thông thì cho ở phía trong và phế bỏ cái bàn rượu của ông ta.

Tôi cho xây tòa Quan Âm Đường bên phía Tây Điện Tổ và rước Thánh tượng Quán Âm ra đây thờ. Tổng cộng có 15 gian.

Dựng nhà vệ sinh (WC) cho chúng Ngoại trú cùng các ngôi nhà lặt vặt khác là 9 gian. Nhà vệ sinh cho chúng Nội Trú cộng với nhà tắm là 7 gian. Xây chỗ ở tạm dành cho chư Ni đên thọ giới, đem tượng đồng của Lục Tổ ở trong Phương Trượng đặt vào tháp Linh Chiếu (tượng này nguyên ở chùa Đại Giám, Thiều Châu, vì chùa bị cháy nên mới rước về Nam Hoa).

Phía sau Điện Tổ, xưa là am Tô Trình, chỗ này do quá nhớp nhúa nên phải tẩy uế, cho dọn dẹp sạch sẽ rồi mới khởi sự xây lại, còn cất thêm tầng gác ăn thông với Điện Tổ, tạm làm Phương Trượng.

Phía Đông của Phương Trượng có một gò đất, đào đất này để bồi vào sơn chủ. Cất thêm dãy lầu cao hai tầng, mỗi tầng có năm gian, chia làm Tổ Đường, thờ lịch đại Tổ Sư cùng bài vị, văn bia… của những vị từng Trụ trì chùa Nam Hoa. Tình hình nội bộ đã định xong, tôi bèn lên kế hoạch sẽ tuần tự thực hiện mười việc.

  1. Sửa lại dòng sông để tránh thế hung sát

Tôi nghiên cứu thấy con sông Tào Khê chảy từ phía Đông núi Thiên Vương, uốn lượn ra mặt tiền chùa, còn phía Tây chảy đến cầu Hồng Quang thì đổ xuống vùng Mã Bá. Sông nằm cách cổng chùa hơn 140 trượng (1940m), do nhiều năm không tu sửa nên bị cát đá ùn tắc gây nghẽn và xẻ dòng nước chảy đổi sang hướng Bắc, thế như đâm vào đại lộ chính trước chùa (bắn thẳng vào hướng cổng chùa), nhìn rất phản cách. Cho nên, việc trước nhất là phải chuyển đổi dòng sông, khôi phục lại đường chảy cũ để tránh thế hung sát.

Mùa hạ năm Dân Quốc 24 (1935) Ất Hợi

Tôi bỏ công nghiên cứu thẩm định lại dòng nước để khởi sự đào đường mới cho con sông, lấp hướng đi cũ của nó. Toàn công trình này tính ra dài hơn 870 trượng, sở phí kếch xù. Định sáng mai khởi công thì ngay trong đêm 20 tháng 7, trời bỗng đổ mưa to, sấm chớp đùng đùng, nước chảy tràn bờ, xẻ dòng sông sang hướng mới. Còn dòng cũ bị bùn đất, cát sỏi bồi lấp cao lên, biến thành một con đường thẳng tắp hình chữ nhất trước chùa. Đây là nhờ sức Thần phụ giúp, chứ Vân tôi thật chẳng có công lao gì.

Ngày nay, nhờ phù sa dòng nước bồi đắp, phía trước chùa cây cối xum xuê, chẳng còn dáng vẻ phản cảm như trước kia.

  1. Sửa lại chủ thể hướng núi cho chánh

Hồi trước, Sơn Môn nằm về phía Tây cây Chương, muốn đi ra hay vào tất phải lách tránh cái hố sâu, nhìn chẳng ra vẻ Chánh Biện có đường chính hay cổng chính gì. Thêm nữa, ngoài Sơn Môn dù có con đường lớn bằng phẳng, nhưng lại là khu nghĩa trang, phần mộ chôn cất bừa bãi, nằm lộn xộn, ngổn ngang. Vì vậy, trước hết phải bốc dời mộ đi, ban đắp lại cho bằng, rồi đem số đất đá thừa đắp Thành Hộ Vệ (cao khoảng vài trượng) hai bên tả hữu núi. Tôi chọn chỗ này làm cổng chính Tào Khê, phía ngoài phát rộng ra, làm quảng trường trồng cây, từ xa nhìn vào đã thấy cây cối tỏa bóng mát rượi, mây trắng phủ đất, đầy khí thế Tùng Lâm, hùng vĩ thanh tịnh

  1. Bồi núi chánh để tránh thế tọa không và đắp cao tả hữu để hộ sơn, tạo thành thế chỉnh chu cho cuộc đất

Chỗ chùa tựa vào núi hình giống như con voi, người sau đặt Phương trượng nằm đằng sau núi, lại chia cắt rời rạc, khiến hậu diện chùa rơi vào khoảng trống, không có điểm tựa (là thế vô chủ). Chùa nằm trên miệng voi, hai bên tả hữu nép phía dưới, khiến hàm voi bị san thành bình địa, âm dương chẳng phân. Phía bên hữu nối với mũi voi, đáng lẽ phải cao vót, thì lại chia thành từng đốt, chỗ lồi, chỗ lõm, còn bị. người cắt đứt tại giếng Tỳ Lô (giếng ở phía góc tây Thiền Đường hiện nay) Riêng con đường chạy thẳng đến đầu Sơn

Môn bị khuyết trầm trọng (rơi vào thê Đại Không), chung quanh trống lốc, không có cây cối che chắn, nên nếu nhìn xa thì thấy chùa nằm trơ vơ cô độc, không điểm tựa… còn nhìn gần thì phần vòi lại bị bít, thật đáng tiếc.

Vân tôi cho san bằng các Điện Đường cũ cùng hành lang, phần đất đá dư được đem đến bồi ba chỗ: bên hữu cao hơn tả để tạo hình vòi voi, hơi cong về hướng Đông để tạo thành chỗ uốn cong của cái vòi. Khoảng giữa cho đào hồ sen, là chỗ hút nước của vòi voi và đắp cao phía sau núi tạo thành chỗ dựa vững chắc. Cả ba nơi này đều được trồng cây cối, hiện nay rất xum xuê sầm uất.

  1. Cất Điện Đường mới cho trang nghiêm

Dân Quốc năm 25 (1936), Bính Tý:

Tôi cho xây Đại Hùng Bảo Điện mới trên nền cũ (sau Công Đức Đường hiện tại). Giờ thì Tháp Linh Chiếu nằm bên tả, tọa cấn hướng khôn., (do ông Thượng Khả Hỷ ở đất Bình Phiên xây dựng nên).

Tôi chọn Chánh Điện làm chủ thể toàn chùa, vì đây chính là chỗ quan hệ trọng yếu, rồi cho đo định địa thế, hợp thợ lại xây cất, dời Chánh Điện ra trước tháp, biến Tháp Linh Chiếu thành chỗ tựa lưng cho Đại Điện, tạo thành thê trang nghiêm vững vàng. (Tọa phương Quí Sửu hướng Đinh Mùi, đồng hướng với Cổng Bào lâm). Nhìn rất đường hoàng trang nghiêm, sáng rỡ… Phía ngoài voi (giống như chỗ trụ của vua), bên trong là tòa Sư tử, tạc kim thân Đại Phật cao năm trượng, xây tượng Tôn giả Ca-diếp, A-nan đứng hầu hai bên. Gọi chung là Tam Tôn. Cho dựng năm trăm tượng La hán chung quanh. Còn hai bên tả, hữu đặt tượng hai vị Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền. Phía sau Tòa đắp tượng Quan Âm. Khách thập phương nghe danh tìm đến chiêm ngưỡng Tào Khê, lòng đầy hân hoan mến mộ, thỏa nguyện ra về.

Khi xây móng điện, đào đất bắt gặp một tòa tháp bằng sắt, cao khoảng một trượng, đúc vào năm Ung Chính, triều Thanh (1723 1735). (Trong Chí Thư ghi là Tháp Hàng Long, điều này không đúng). Tôi đem tháp này để dưới lầu trống (Cổ Lâu), phết vàng lại cho trang nghiêm. Rồi mang hai tấm bia Bình Phiên khảm vào Lầu Chuông Trống để khảo cổ. Đồng thời, san bằng nền đất Cổng Tào Khê, cùng những gò đất ngổn ngang nơi cổng.

Cho xây rãnh dẫn nước dài hơn 50 trượng từ gò mũi voi chảy xuyên qua núi, tạo thành hang nước, dòng chảy rót vào ao nơi cổng Tào Khê. Chu vi ao hơn bốn mươi trượng, giữa có Đình Ngũ Hương, hình dáng giống như cái vòi voi cuốn hoa sen. Các loài có vảy, mai, cư ngụ nơi đây.

Năm Dân Quốc 26 (1937), Đinh Sửu:

Tôi cho xây cổng Tào Khê (nguyên trước đây cổng ở phía Tây, nằm dưới tàng cây Chương lớn), nay được dời về phía Đông, giữ thế tọa Quí Sửu hướng Đinh Mùi, đồng hướng với Điện Thiên Vương. Dạo trước, Điện Thiển Vương ở sau Tây Quy Đường hiện thời. Nền điện có nhiều gò đất ngổn ngang, phải san bằng hết để lập điện thờ Tứ Thiển Vương. Bên tả điện là Lầu Hư Hoài, bên hữu là Lầu Vân Hải. Xây thêm Trai Đường, Bếp Hương Tích, các kho, phòng v.v…

Khi xây Bếp Hương Tích, lúc đào đất nhặt được một cái nồi đồng to (có thể nấu cho một ngàn vị Tăng dùng), tôi cho đặt phía sau Đại Điện (trước tòa Bồ-tát Quán Âm), để trồng sen.

Năm Dân Quốc 27 (1938) Mậu Dần:

Xây Cổng Bảo Lâm, nguyên nền đất ở mé Tây bị trống khuyết, gập ghềnh không bằng, nên đào đất của nó để bồi thêm hai bên tả hữu.

Dưới Lầu Vân Hải có một cái giếng xưa, tên Giếng La Hán, thuở trước miệng giếng thấp, giờ cho đắp cao lên một trượng năm đế xứng với khoảng vườn bằng phẳng. Hai bên tả, hữu đều lập ao sen.

Cho xây lại Lầu Chuông, (Chung Lâu) quả chuông đồng này mới đào được, là di vật từ đời Tống, đem treo lên, tiếng nó vang xa đến năm cây số, giúp người cảnh tỉnh. Cho xây Báo Ân Đường, Điện Già Lam cùng Khánh Đường.

Năm Dân Quốc thứ 28 (1939), Kỷ Mão:

Xây Lầu Trống, (Cổ Lâu), Điện Tổ Sư, an trí thờ từ tổ Đạt Ma cho đến Lục Tổ và Tổ khai sơn bổn tự là Tôn giả Trí Dược (tất cả bảy vị). Xây thêm Tây Quy Đường để thờ giác linh Tăng chúng và xây Điện Công Đức để thờ bài vị của chư đàn việt thí chủ hộ pháp. Xây Vân Thủy Đường dể tiếp đãi chư Tăng vãng lai.

Năm Dân Quốc thứ 29 (1940) Canh Thìn:

Xây Thiền Đường, Điện Vi Dà, Liêu Ban Thủ, Liêu Duy Na để kiểm soát chúng.

– Xây bệnh viện Như Ý Liêu để chẩn bệnh và điều dưỡng, cho bán trà Nam Hoa làm tiền thang thuốc.

– Đục vách núi phía sau Phương trượng để dẫn nguồn nước suối Trạc Tích chảy vào hồ nước, đặt ống dẫn nước ăn thông đến Bếp Hương Tích cùng các Liêu, Đường.

Năm Dân Quốc thứ 30 (1941) Tân Tỵ:

Ở phía sau Chánh Điện, trước tháp Linh Chiếu, xây một tòa Pháp Đường, tầng trên là (Tàng Kinh Lâu) Lầu chứa Kinh, trong cất toàn bộ Long Tạng được thỉnh về từ năm Dân Quốc 25 và bộ Đại Tạng Di Trân. Chủ tịch Lý Bá Hào mang đến một bộ Thích Sa Toàn Tập.

Khi xây Giới Đàn, đào được tấm bia ghi việc sửa tháp năm Vạn Lịch (1573-1615).

– Dựng lập Vũ Hoa Đài trong vách núi.

– Xây Hồi Hướng Đường để thờ những cô hồn chết yểu.

– Xây Lầu Nghinh Hiền để chiêu đãi khách, cho họ có nơi ăn chốn nghỉ.

– Xây Am Vô Tận cho chúng nữ đến tu học. Nền am xưa hình như ở bên hữu suối Trạc Tích (Sư Hám Sơn đã từng trùng tu) giờ mục nát vì bỏ hoang quá lâu, tôi thấy am và chùa nằm quá gần nhau nên cho dời am về phía Đông, cách chùa khoảng 1.500m, truyền hạ cây Bách để xây dựng thôn trang và cho đề bảng là Cổ Vô Tận Am, dời Ni chúng đến đây tu trì. Chân thân của ni Vô Tận hiện còn ở Am Tây Hoa, thôn Loan Đầu, Khúc Giang. (Hiện nay, tôi cho đắp một bức tượng phỏng y theo diện mạo đó, đặt trong am để làm gương cho Ni chúng).

Năm Dân Quốc 31 (1942) Nhâm Ngọ:

Bên tả của Điện, tôi xây Niệm Phật Đường cho người tu Tịnh Độ. lúc đào đất, được tấm bia khánh thành Am Tô Trình niên hiệu Vạn Lịch (1573-1615), tôi cho trưng bày nơi vách Niệm Phật Đường làm căn cứ khảo cổ.

– Tiếp tục xây Diên Thọ Đường cho chư vị già cả an dưỡng, khi ban nền đất, phát hiện một bức chân tượng của Lục Tổ làm vào năm Thuần Hy đời Tống (1174-1189) và một tấm văn bia, bèn đem vào trong Điện Tổ, đặt lưu niệm nơi vách hành lang.

– Phía sau Lầu Chuông, (Chung Lâu) xây Kho Gạo, Nhà Tắm, Liêu Thợ, các Kho, Khố… chứa đồ, còn Nhà Vệ Sinh ở phía Đông.

Trong lúc đào đất phát hiện vô số xương người cùng một cái quan tài dài 1 trượng 6, bên trong cổ quan có rất nhiều đụng cụ chứa ngũ cốc bằng đất nung (khảo cứu sau).

Năm Dân Quốc thứ 32 (1943) Quí Mùi:

– Cho xây Tháp Hải Hội, cách chùa một cây số nằm về phía Đông, do chùa Nam Hoa cũ không có Tháp Phổ Đồng, nên chư Tăng nhiều đời thị tịch đều bị đem chôn bừa bãi trên núi, lâu ngày thi thể phơi bày, bỏ mặc. Để an ủi vong linh của tiền nhân, tôi cho xây Lò Trà Tỳ. Hài cốt sau khi hỏa thiêu xong sẽ cho nhập tháp thờ. Tháp chứa hài cốt bảy chúng, nên tôi cho xây bằng cốt sắt và ciment rất kiên cố, rộng đủ chứa cả triệu bình hài cốt. Phía trên có xây Niệm Phật Đường, cho niệm Phật quanh năm, để cõi u cõi Minh gì cũng được lợi ích. Bên tả và hữu của tháp tôi cho xây thêm bốn dãy lầu phòng, làm chỗ cho người niệm Phật và trông nom tháp ở. Chung quanh tháp có tường bao quanh, trước tháp trồng nhiều cây cối. Ngoài cửa có đào ao trồng sen.

Cho tu bố lại Suối Trạc Tích (vì ngày trước không có hồ chứa nước nên ăn uống không được sạch), giờ phải đào hồ chứa, bên trong có đặt ống, dùng ống dẫn nước đến các Liêu lớn.

– Sửa Cầu Phi Tích đế bảo tồn cố tích.

– Sửa Đình Phục Hổ để dứt hố họa.

– Lập Thiết Nghĩa Đường để dạy trẻ em nghèo thất học trong các thôn làng quanh vùng Tào Khê.

Đó là những việc thuộc năm Dân Quốc 32.

Tổng kết ngót mười năm, Vân tôi trùng tu, xây cất Tổ đình đến đây xem như được đầy đủ.

  1. Đuổi hết côn đồ – Quét sạch thói tệ

Vân tôi đến núi vào tháng tám năm Giáp Tuất, chứng kiến cảnh Đạo Tràng Thánh Địa biến thành ác cảnh Tu La, Tổ Đình hóa thành nơi chăn nuôi súc vật, Chánh Điện thành Lò mổ thịt. Phương Trượng trở thành chốn trú binh, Liêu Tăng hóa thành Nhà hút thuốc phiện. Đường Bồ Đề thì thịt bày bán la liệt, Lâm Viên hóa Quán Rượu, Cà-sa mọc sừng, cảnh khiêu vũ nhảy nhót, hát hò, làm dơ uế đầy, không điều ác nào mà chẳng làm.

Mới đầu tôi nhỏ nhẹ khuyên can thì họ chẳng thèm nghe. Hễ tôi tạm hiển chút quyền thì họ xách dao rượt chém, khiến tôi lâm vào cảnh lao đao, nhiều phen suýt chết.

Cuối cùng, nhờ đại lực chư Hộ pháp, Đàn việt, thiết thực nghiêm cấm, răn đe, phụ khuyên dạy đuổi trừ, phải mất ba-bốn năm, những việc tranh chấp này mới chấm dứt.

Còn ở ngoài chùa, trên con đường lớn phía Nam, tôi cho dựng hơn mười gian hàng nhỏ, tuyển chọn người hiền thiện lân cận cho bán trà nước rau quả, chỉ cho bán đồ chay. Họ răm rắp tuân lời.

Từ đó đến nay, các ngôi Điện Vũ được trùng hưng, chốn này biến thành đạo tràng tôn nghiêm thanh tịnh.

  1. Đo, định lại địa giới chùa để bảo tồn cổ tích

Từ khi Tổ sư mộ hóa, đàn việt Trần Á Tiên cúng đất, lấy ngọn Tứ Thiên Vương làm ranh giới, trải qua nghìn năm, đến nay đã thành quy định. Thời gian lâu xa, nhân sự biến đổi, mặc dù trong Chí Thư đã ghi rất rõ nhưng thực tế chùa không còn sở hữu gì. Tăng Đường chỉ còn mấy căn nhà hư vách. Tượng Phật ngồi trơ phủ bụi, chuyện ranh giới bỗng hóa thành thước trời tấc đất, chỉ điểm mơ hồ.

Đến tháng 9 Dân Quốc 25 (1936) năm Bính Tý, trên tỉnh phái người đến xem xét, xác định ranh giới chùa để bảo tồn cổ tích, cho tiến hành vẽ bản đồ, ra thông báo ấn định, chùa cứ theo bản vẽ mà quản lý sản nghiệp, nhờ vậy những vùng thuộc đất chùa được khôi phục phân minh.

  1. Sắp xếp tăng gia sản xuất để duy trì thường trụ

Khảo sát về sản nghiệp chùa Nam Hoa, trong Chí Thư có ghi rõ: “Trải qua nhiều năm bị cường hào thôn tính, thêm gặp cảnh gian tăng bán trộm đất chùa”… nên khi Vân tôi lên núi thì phần lúa ruộng chỉ còn hai chục gánh, nghìn phần chẳng còn được một. Tôi bèn ra tay chỉnh đốn. Nghỉ trước muốn thanh lý sản nghiệp thì phải căn cứ vào văn tự khế ước. Hễ vùng đất nào thuộc tài sản chùa mà người chiếm không có sổ đỏ thì sẽ thu lại, còn phần đất nào họ có giấy tờ mà truy nguyên thấy gốc gác thuộc chùa thì sẽ xuất tiền ra mua, chuộc lại theo luật định. Trong lúc tôi còn đang dự tính, thì thời cuộc sinh biến, dấy động phong ba, khiến tôi khó thể tiến hành, chỉ có khu vực Lâm Trường phía Bắc trước đây là yên, có thể thực hiện được.

Năm Dân Quốc 25, nhờ chính phủ phê chuẩn cho chùa được quản lý sản nghiệp lại, nhưng việc thu nhập rất ít, chẳng đủ để lo cho chúng thường trụ. Tôi bắt buộc phải quyên góp để mua, chuộc lại đất chùa dần dần.

Đến năm Dân Quốc 28 (1939), tôi liên tục mua lại và sắm được vài mẫu ruộng nước, mỗi năm thu vào khoảng vài trăm đảm (một đảm tương đương 50kg). Đến lúc này, chùa mới có lúa để ăn, nhưng phải trải qua rất nhiều gian khổ… khó mà tả cho hết được. Khổ nhất là việc giải quyết Trang Trại Tử Duẩn (của chùa) ở sau núi, nguyên do là trong đây có khoảng ba trăm mấy chục thửa ruộng bị hai họ Lê, Tạ xâm chiếm nên họ thường gây hấn, phá rối thậm tệ, đến nỗi chùa phải nhờ chính phủ can thiệp. Rồi do thời cuộc biến đổi nên đến nay vẫn chưa thu hồi giải quyết được gì, đành hy vọng hàng hậu lai làm thay.

  1. Nghiêm trì giới luật cứu vãn phong hóa suy đồi

Xưa, khi Đức Phật nhập diệt, đã dạy đệ tử về sau phải lấy giới làm Thầy, tuân thủ nghiêm quy. Tuy rằng thời này mạt pháp, Tăng-già đọa lạc… song đọa như thế này thì quá thậm tệ! Tôi nghĩ đến Tổ đình chùa Nam Hoa ngày xưa, thì sao có thể dung được sự tuột dốc, ô hợp, đồi bại này? Nhưng bây giờ, muốn nhóm lửa lên từ đống tàn tro hoang lạnh mà không hoằng pháp thì khó thể trùng hưng. Chẳng giữ giới thì khó thể truyền pháp. Tôi bèn nương theo Bách Trượng Thanh Quy, chỉnh đốn kỷ cương, dù lúc cháo lúc cơm vẫn ăn đúng ngọ, nhất bộ nhất hướng đều phải giữ uy nghi, vậy mới đúng là đệ tử Phật, có thế mới mong bảo tồn Tùng lâm lâu dài.

  1. Lập Thiền Đường, an tăng, tiếp nối huệ mạng

Sơ Tể Tây lai, Thiền truyền trực chỉ. Lục Tổ đắc pháp, hoằng dương năm Tông… là Thiền Ba la mật. Ngũ Đăng Hội Nguyên có ghi: “Chư Phật, chư Tổ đều trong Thiền định mà ra, được đại cơ đại dụng, độ chúng sinh không tính được”. Nay vì đạo tràng Đốn giáo của Đức Lục Tổ lạnh lẽo đã lâu. Vân tôi mới lập Thiền Đường, định giờ tĩnh tọa, cho đánh chùy nhắc nhở cảnh tỉnh, giúp hành giả mài dũa thân tâm, độ mình độ người, nối huệ mạng Phật.

  1. Truyền giới, lập trường đào tạo nhân tài

Đang thời kiếp mạt, truyền pháp vào buổi tàn thu, tôi đau lòng đến rơi lệ. Vì sao?

Phật từng dặn dò: “Giới là Đại Sư của các ông”.

Lại nói: “Giới như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, có thể xua tan bóng tối của đêm dài”. Lại nói: “Kinh này hay trụ thế, Phật pháp được hừng thịnh. Nếu không trì giới này, thế giới đều tối tăm”.

Ngày nay Phật pháp suy vi, tam môn đen tối, không phải là không có duyên cớ. Chẳng lẽ Thích tử mang danh thọ giới mà chẳng tôn sùng, bên ngoài khoác áo cà sa, mà hạnh giống như người thế tục ư? Như vậy chỉ là đệ tử, quyến thuộc của ma Ba Tuần, là loại dòi, trùng, trong thán sư tử mà thôi. Vân này vì muốn cứu vãn sự suy đồi, không muôn tốn hao tài vật của tín thí vô ích nên mới thông nhất lại, tất cả đều làm đúng pháp, đào tạo nhân tài, thường chuyển bánh xe pháp cho huệ mệnh được tiếp nối mãi.

Vì vậy mới mở Giới đàn trường kỳ, gặp năm truyền giới, đạo chẳng kể xa gần, người chẳng nề nhiều ít. Người cứ đúng thời mà đến, nhận truyền giới pháp. Thọ giới xong thì cho vào Học Giới Đường học tập, tu hành, tạo vốn riêng, chẳng nhận gởi tên (thọ giới mà không đến), chẳng dung giản lược, là để giới luật được đầy đủ vậy.

Tôi đến núi đã mười năm, nương uy linh chư Phật, Tổ, đàn việt hộ pháp. Mười điều hoạch định này tuần tự hoàn thành. Thực hiện tiếp nối nguyện vọng dang dỏ của sư Hám Sơn ngày xưa. Đến nay, chùa đã có thể chứa được năm trăm Tăng, thóc gạo cũng đủ cho nửa năm lương thực. Tứ sự cúng dường, hiển bày cụ thể. Phật tứ’, Trụ trì an tâm không lo, kính mong hàng chấp sự lưu tâm gìn giữ bảo vệ đạo tràng này.

Trong mười năm Vân tôi ở nơi đây, từng tả xông hữu đột, gian khổ trở xoay, uốn cong thành thẳng, dẹp loạn chỉnh an, chống lại những quấy nhiễu bên ngoài, muôn vàn khổ nạn khó mà kể hết.

Giờ, Vân tôi đi, công việc giao lại cho trụ trì là đồ đệ Phục Nhân. Tôi viết kể lại những sự thật này nhằm để khích lệ người sau. Nếu có bậc cao nhân siêu thế, bậc Đại sĩ không Tông, cho đây là Phật Sự không hoa, là Đạo tràng thủy nguyệt thì Vân tôi chẳng nề gì.

Hư Vân này từng cung kính đọc Đàn Kinh, đến chỗ Ngũ Tổ lấy Ca sa vây quanh che kín để thuyết Kinh Kim Cang cho Lục Tổ, đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” Lục Tổ liền đại ngộ thưa với Ngũ Tổ:

Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh!
Đâu ngờ tự tánh vốn không sinh diệt!
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ
Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động!
Đâu ngờ tự tánh hay sinh muôn pháp!

Ngài nói thẳng một hơi như hoa trời rơi. Bốn câu “Đâu ngờ” đầu là nhiếp dụng về thể, còn câu “Đâu ngờ” sau rốt là đại dụng toàn thể. Bốn câu đầu là tự độ, câu rốt sau là độ sinh. Vì “Hay sinh muôn pháp” là tất cả chủng trí vậy. Đức Phật chúng ta vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện nơi đời này để “khai, thị, ngộ, nhập… Tri Kiến Phật”, mở rộng Phật pháp đến vô biên, độ chúng sinh đến vô tận. Vì vậy mà Đức Thích Ca chẳng ở trọn đời nơi Tuyết sơn, Lục Tổ chẳng ẩn mãi trong Làng thợ săn, là nguyên nhân phải ra truyền Phật chủng trí vậy.

Hư Vân này tuy thực hành và khả năng không đồng, nhưng chẳng dám làm kẻ cuối cùng đoạn mất – chủng tính Phật. Vì vậy, suốt mấy mươi năm nay, luôn dốc sức trùng hưng đạo tràng, chẳng tiếc làm trẻ con gom đất vẽ cát, sự độ sinh có nhiều cách, tùy căn cơ hướng dẫn để truyền chủng trí Phật mà thôi, đâu dám luận về hữu tướng, vô tướng.

Hữu tình lai hạ chủng Nhân địa quả hoàn sinh.

(Hữu tình gieo giống xuống, Nương đất quả này mầm)

Nguyện cho tất cả hữu tình đồng viên chủng trí.

Ung dung xả ly

Đại Sư từ lúc xuất gia đến nay đã hơn 90 năm, khi xây xong một ngôi tự viện nào, Ngài chẳng hề ở lại Trụ trì. Không thọ người giàu cúng dường. Hóa độ vô số người. Tự tay Sư trùng hưng các chùa lớn nhỏ có đến vài chục. Nhiều ngôi kiến trúc hoành tráng mỹ lệ, trang nghiêm như: Vân Thê (Vân Nam), Nam Hoa (Bắc Quảng Đông)… phí tổn đến hằng trăm vạn kim, khó mà tính cho xuể.

Rồi cuối cùng thì Sư chỉ có một manh áo tùy thân, một nón, một dao cạo, một phất tử, một tay nải… đi hành cước khắp trong và ngoài nước. Sư xây chùa Vân Thê, đến như thế mà đi cũng như thế. Sư trùng hưng chùa Nam Hoa, lên núi cũng như thế mà xuống núi cũng như thế.

Tháng 8 năm Dân Quốc 23 (1934), Sư tới chùa Nam Hoa Quảng Đông.

Đến tháng 12 năm Dân Quốc 32 (1943), thì Sư giao chùa cho đồ đệ Phục Nhân chủ trì lo liệu. Còn mình với vật dụng tùy thân đơn giản muôn thuở, Sư rũ tay thong dong, nhẹ nhàng đi đến Nhũ Nguyên trùng hưng chùa Vân Môn. Điều này ai cũng thấy.

*Tiểu Sử (Đồ đệ ngài Hư Vân) - HÒA THƯỢNG PHỤC NHÂN

Sầm Học Lữ ghi:

Sư quê ở Đại Phổ, xuất gia nơi chùa Cam Lộ (Xiêm La). Thọ giới cụ túc tại Thiên Đồng, từng tham học với chư Sư: Tịnh Tâm, Quả Tông, Dung Thông, Từ Châu… đã từng đi viếng lễ: Phổ Đà, Ngũ Đài, Cổ Sơn… Trụ Kim Sơn (Cao Mân) 8 năm và có chút sở ngộ.

Sư theo Hòa thượng Hư Vân đến trùng hưng chùa Nam Hoa. Vâng lệnh Hòa thượng đi mộ hóa ở Nam Dương, hóa duyên rất đắc lực, giúp xây Nam Hoa thành công.

Đến năm Dân Quốc 31(1942), Sư trở về Quảng Đông. Vì chính phủ mời Hòa thượng Hư Vân đi Trùng Khánh. Hòa thượng dạy Sư thay Ngài trụ trì, kế tục pháp mạch, truyền tiếp Đại giới.

Đến năm Dân Quốc 37 (1948), Sư từ chức, độc cư tại Mao Bồng, núi Đại Tự, một lòng hành đạo tinh tấn chí thành.

(Sư giao việc Trụ trì cho Linh Nguyên. Linh Nguyên truyền lại cho Bổn Hoán).

06

DÂN QUỐC 33 (1944) GIÁP THÂN 105 TUỔI

Ngài Hư Vân kể:

Đầu năm dân quốc thứ 29 (1940), khi tu sửa đạo tràng của Lục Tổ ở Tào Khê xong, Vân tôi cùng vị tăng Phước Quả người Quảng Đông đến Khúc Giang đi khắp vùng Nhũ Nguyên, hỏi thăm Đạo Tràng Linh Thọ mà chưa được. Khi đến núi Vân Môn, nhìn thấy trong khu rừng gai có một ngôi chùa mục nát (bên trong còn nhục thân của vị Tăng là Tổ khai sơn Tông Vân Môn ở đạo tràng này). Chứng kiến cảnh Tổ đình đổ nát đến thế, tôi không cầm được nước mắt. May có thầy Minh Không đến đây từ năm Dân Quốc 27 (1938), giỏi chịu đựng gian khổ, một mình ở chốn núi lạnh này phụng thờ Tổ. Nghe vị Tăng này kể lể tình hình, mới hiểu hết muôn vàn thông khố. Thầm nghĩ: “Chốn này nếu chẳng trùng hưng, e sẽ bị mai một”. Tôi bèn trở lại Nam Hoa.

Một hôm, nhân hai ông chủ nhiệm Lý Tế Thâm và Chủ tịch Lý Hán Hồn đên chùa, tôi bèn kể chuyện Vân Môn, mời họ đến xem. Thấy cảnh điêu tàn của ngôi Đại Giác Thiền Tự chẳng kém gì tình hình Nam Hoa lúc tôi chưa đến Tào Khê. Tôi cho mời các vị Tăng tục có tiếng tăm trong địa phương, phụ trùng hưng Tổ đình, họ bằng lòng. Thế là tôi giao Nam Hoa cho Phục Nhân. Nhờ các ông Lý Tế Thâm, Lý Hán Hồn, Châu Hồng… đưa tôi đến Vân Môn kêu gọi mọi người góp sức. Việc trùng hưng cực kỳ gian nan. Bấy giờ nhằm tháng 12 năm Quí Mùi, Dân Quốc thứ 32 (1943).

(Tôi biết Nam Hoa sẽ có chuyện, bèn âm thầm mang chân thân của Lục Tổ cùng ngài Hám Sơn chuyển đến Vân Môn, các pháp bảo cũng được mang từ từ đến nơi này).

Ban đầu đến đây, nhà hư vách đổ, cỏ phủ hoang tàn, chỉ còn lại Tổ Điện, tình thế thật nguy cấp. Tôi ngụ trong cái am thất mục nát phía sau Quan Âm Đường, lên kế hoạch trùng tu.

Mùa đông tháng mười, Nam Hoa lập Đạo tràng Thủy lục. Mời tôi về chủ trì đại lễ.

Phụ ghi: ONG ĐẦU NGƯỜI

Trước đó một tháng, có bầy ong núi bỏ tổ bay đến, ong to bằng ngón tay cái, đầu tiên nó làm tổ ở hai bên hành lang của Pháp đường. Tổ nó nhìn giống như cái lồng đèn lớn của chánh điện. Kiến trúc rất khéo léo, đường vân lăn tăn như sóng nước, tầng tầng lớp lớp trùng điệp chất chồng, có bốn màu, trông rất đẹp mắt. Sau đó, bầy ong lại làm một cái tổ lớn hơn trên cây cổ thụ ngoài cổng Tào Khê. Ong không chích người, hơn nữa kỷ luật rất nghiêm. Lúc đó, tứ chúng tụ hội nhìn thấy, ai cũng cho là ong thần đến lễ Phật. Khi Sư từ Vân Môn đến làm chủ trì đạo tràng, đi tuần xem thấy. Bấy giờ, Thủ tòa Quán Bổn, Tri Khách Duy Nhân, Cư sĩ Sầm Học Lữ, Lâm Viễn Phàm, Lý Chấp Trung v.v… cũng đi theo. Sư quan sát thật lâu, bảo:

– Đây là ong đầu người, lúc bình thường chúng chỉ ở trên đỉnh núi xa hút, nơi thành đô chẳng dễ gì thấy được. Bây giờ chúng kéo đến đây, ắt là sắp xảy ra chuyện!

Rồi Sư lặng lẽ đi tuần. Tối đó Sư bảo Sầm Học Lữ:

– Ong bốn phương bị động, e sẽ xảy ra nạn binh đao, nhưng không có gì đáng lo. Nếu có biến sự, tôi sẽ phái người đến đón các ông.

Đạo tràng hoàn tất, Sư trở về Vân Môn. Đến ngày 12 tháng chạp thì giặc vây Khúc Giang. Cuối đêm 18, thổ phỉ dòm ngó những vị khách nhà giàu đi tỵ nạn, dẫn binh đến cướp chùa Nam Hoa và chở tài sản cướp được ra khỏi chùa. Chưa đầy nửa giờ, vị Tăng ở Vân Môn được Sư phái đi Nam Hoa đón Sầm Học Lữ đã đến. Sư ở cách xa mà đã tiên liệu biết trước như thế rồi.

Mùa xuân năm này lại có chuyện lạ:

HẮC LONG QUÁI CẦU THỌ GIỚI U MINH

Cô Từ Thị, người Nam Xương, Giang Tây, khép cửa phòng khuê chờ người đến cưới, Ở Thanh Giang có ông thầy thuốc tên Tạ Song Hồ, tuổi hơn 50 mà không có con trai, nghe danh cô nên cầu hôn. Cô thấy Song Hồ kính tin Phật pháp nên ưng thuận. Nhưng vào đêm hợp cẩn, hai ngươi chẳng thể đồng sàng.

Nguyên do là thuở cô Từ tuổi vừa cập kê, thì bỗng có một con quái đến dựa vào người cô, bày tỏ tình cảm. Cô kiên quyết chống cự thì nó quấn chặt thân cô, dùng mũi phun nước, quấy phá cô gần chết. Con quái mặc tình làm càn, thoắt đến thoắt đi. Ban đầu ông Tạ không rõ việc này, tới hồi cưới về mới vỡ lẽ, nhưng không biết làm sao đối phó.

Năm Dân Quốc thứ 31 (1942), cô Từ đến Am Thanh Tịnh ở huyện Thanh Giang, xin xuất gia với sư Thường Khai, được ban cho pháp danh Diễn Huệ, hiệu Đạo Cần, nhưng con quái vẫn quấy phá như cũ. Sư Thường Khai bảo:

– Ta nghe nói Hòa thượng Hư Vân là một vị cao tăng thạc đức, Ngài đang chủ trì hoằng hóa vùng Lãnh Nam, con hãy đến đó xin Ngài che chở cho.

Vào Giới kỳ mùa xuân năm Dân Quốc 32 (1943), cô nhờ ông Tạ Song Hồ đưa đến chùa Nam Hoa xin thọ giới. Một hôm, khi lên điện nhiễu Phật, cô bỗng ngã lăn ra chết giấc, hồi lâu mới tỉnh. Cô thọ giới xong, con quái bảo cô:

– Nay ngươi đã đắc giới, ta không làm gì được. Từ nay về sau ta chỉ biết đeo theo chờ ngươi sơ suất mà thôi. Chi bằng ngươi hãy xin giúp cho ta cũng được thọ giới…

Cô Từ nói:

– Muốn thọ giới thì phải có danh tánh, tướng mạo, nhà ngươi đến, đi vô hình, lại không có họ tên thì làm sao đắc giới?

– Ta tên là Hắc Long Giang, về dung mạo thì nhờ cô họa giùm.

– Tôi không biết chữ, cùng chẳng biết vẽ thì làm sao mà giúp ngươi?

– Dễ thôi! Cô chỉ cần cầm bút lên là được!

Cô Từ làm y như con quái bảo thì bỗng gục đầu xuống giống như say ngủ, một lát sau thì vẽ xong bức họa đầu rồng thân người, có đủ sừng vảy. Cô cầm bức tranh, quỳ xuống xin Hòa thượng Hư Vân thuyết u Minh giới. Từ đó, tai họa mới dứt. Bức họa này được an trí ở Công Đức Đường chùa Nam Hoa. Đến khi quân Nhật đến mới bị cháy mất.

DÂN QUỐC 34 (1945) ẤT DẬU – 106 TUỔI

Vào khoảng cuối xuân đầu hạ, Nhật đánh phía Bắc Quảng Đông, các huyện và thành Nhũ Nguyên cũng bị bao vây, người lánh nạn chạy đến Vân Môn rất đông. Lúc này gạo không đủ để nấu cháo, phải mài củ làm bột thay cơm. Đại chúng đồng cam cộng khổ với nhau. Gay go nhất là thợ mộc, thợ hồ, thợ làm ngói… tính ra cả trăm người, song họ đều tình nguyện tạm thời chẳng lãnh tiền công, còn gia công làm thêm. Nhờ vậy ngôi Điện vũ mới hoàn thành, có chỗ để ở.

Mùa hạ, quân đội kéo đến phòng vệ, bọn phỉ tưởng là giặc Nhật đến, ra tay đánh úp, quân lương tổn thất rất nặng. Sau đó đại binh tiếp viện kéo đến, họ nghi ngờ hơn 40 làng có sào huyệt bọn phỉ nên lên danh sách sẽ đánh dẹp. Dân trong làng già trẻ xúm nhau tom góp hết đồ đạc, vật dụng, trâu cày, mọi thứ… rùng rùng chạy vào núi lánh nạn có đến cả ngàn người. Các bô lão trong làng đến chùa cầu xin tôi giải cứu giùm. Tôi bèn đi đến trại lính, giải thích mọi việc, bàn họp tới ba ngày, điều đình xong, bên quân đội được hoàn trả lại các vật đã mất và được bồi thường một số tiền, hai bên cùng lập giao ước miễn chiến. Từ đó dân làng rất quý trọng, xem tôi như mẹ hiền. Quân Nhật dù có bao vây huyện thành nhưng cũng không dám quấy nhiễu Vân Môn là nhờ uy thế trợ giúp của dân làng.

Phụ ghi: HÃY ĐỂ HAI BÊN SỐNG AN

Mùa xuân Dân Quốc 34, Sư truyền giới ở Nam Hoa. Trong chùa Vân Môn có hai vị Tăng tên là Cổ Căn và Truyền Chân, đồng ở chung một liêu, Cổ Căn tối đó bị bệnh nên không lên tham dự khoá công phu ban đêm ở Niệm Phật Đường. Truyền Chân thấy vậy cũng làm biếng không đi. Một lát sau, cửa phòng bật mở, một bàn tay lớn thò vào, to đến gần bít luôn cái cửa, một bóng đen lôi Truyền Chân từ trên giường xuÓng để ông nằm dài trên đất, nói:

– Bồ tát mở đạo tràng là để giúp các ông tu, vậy mà ông lại lười nhác, không chịu theo thời khóa, thật chẳng biết xấu hổ!

Nói xong hắn đánh vào hông Truyền Chân hơn mười thoi, Cổ Căn cũng hoảng kinh lây. Ráng căng mắt nhìn cho kỹ, song chỉ thấy là một bóng đen thoáng qua rồi biến mất.

Đại chúng tụ tập đến xem, thấy chỗ Truyền Chân bị đánh tím đen và sưng tấy, da thịt đều tuột ra hết, phải lo thuốc thang hơn một tháng mới lành. Trong chúng có một vị Tăng xuất thân từ quân đội, rất giỏi võ nghệ, thấy vậy bất bình lắm nên qua đêm sau, ông canh gần giờ con quỷ mò đến đánh Truyền Chân, lập tức cầm một cây gậy sắt, lên giường của Truyền Chân nằm chờ…

Chẳng bao lâu, bóng đen đến. Vị võ Tăng chực đứng dậy để nghênh chiến, nhưng có cảm giác toàn thân như bị trói, không nhúc nhích gì được, chỉ nghe có tiếng nói:

– Ông đã xuất gia làm đệ tử Phật mà còn giữ tâm địa bất lương, phải bỏ cái tập khí lính lác của ông đi nhé! Giờ ta không thèm đánh ông. Để xem ông có chịu sửa đổi hay không rồi mới trừng trị!

Đợi bóng đen vụt đi, vị võ Tăng liền chạy trốn.

Bốn tháng sau, ngài Hư Vân từ Nam Hoa về chùa Vân Môn. Một buổi khuya nọ, trong lúc đang tĩnh tọa, Ngài thấy có một ông lão tóc bạc, mặc áo xanh, cung kính làm lễ thưa:

– Đệ tử ở phía sau núi đã mấy trăm năm nay. Khi Thầy đi Nam Hoa, thì đệ tử cũng bận việc đi vắng. Bọn cháu hư dám quấy nhiễu chúng thanh tu, đệ tử đã trách mắng rồi, nay xin đến tạ tội với Thầy. Sư bảo:

– Đã khác hình loại, thì hãy để cho hai bên sống an. Không nên xuất hiện nhiều.

Ông lão cáo tạ ra đi. Sau đó trong chùa chẳng còn bị quấy phá nữa.

Các bô lão trong làng đều nói: Trong núi có một con chồn già.

Năm này:

– Ngày mồng 7 tháng 6, quân Mỹ thả bom nguyên tử ở Quảng Đảo (Hiroshima).

– Tháng 9, Nhật Bản xin đầu hàng vô điều kiện.

DÂN QUỐC 35 (1946) BÍNH TUẤT – 107 TUỔI

Thế giới chiến thứ hai đã đình chỉ, các tỉnh thành làm việc lại. Nam Hoa năm này, mùa xuân vẫn mở Đàn truyền giới, giảng Kinh.

Mùa thu, chính phủ ra lệnh cho các tự viện toàn quốc tụng kinh cầu siêu cho người chết. Các vị quan, dân, thân sĩ ở Huệ Viên mời tôi đến chủ trì pháp hội.

Ngày 17 tháng 9, lập đàn tại chùa Tịnh Huệ (tức chùa Lục Dung), cây hồng đào trong chùa, bỗng trổ hoa đầy, đài to, sắc chói lọi chưa từng thấy. Số người kéo đến chiêm ngưỡng có hơn mười vạn. Cư sĩ Tằng Bích Sơn thêu bức Đào hoa Cổ Phật, cư sĩ Hồ Nghị Sinh vẽ bức Hồng đào ứng điềm lành, mọi người đề thơ ca,vịnh.

(Trụ trì chùa Lục Dung là Quán Bổn. Quán Bổn mất rồi thì Khoan Giám thay thế. Về sau, Khoan Nhượng, Minh Giám tiếp tục…).

Pháp hội hoàn tất, Sư nhận lời mời của các quan, thân sĩ đến chùa Khai Nguyên ở Hồ Châu hoằng pháp, qui y truyền giới cho rất nhiều người.

Bài giảng:

Ý NGHĨA ĐÀN TRÀNG THỦY LỤC

Thứ hai 18/8/1946 Bính Tuất

Lần này bốn chúng các tỉnh mời Hư Vân tôi đến đây hoằng pháp. Tôi hiểu biết cạn, thật là ngại không dám đảm đương. Nay có vài điều xin thưa cùng quý vị:

Thứ nhất, tôi cung kính hoan nghênh quý vị quang lâm. Thứ hai, cảm tạ quý vị trai tăng cúng dường. Thứ ba, tôi không thể dừng ở đây lâu, chỉ vì quý vị yêu cầu, nên tôi buộc phải xuống núi. Đến đây được quý vị tiếp đãi nồng hậu. Quý vị nói rằng gặp được Hư Vân tôi rất khó. Thật ra tôi giờ giống như thân cây già cỗi, mục nát vô dụng, chẳng có tài cán gì và cũng chẳng có lời hay để nói.

Hôm nay lập Đàn tràng, tổ chức Pháp Hội Thủy Lục để truy điệu các chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn. Vì vậy tôi sẽ thuyết sơ qua về nguyên nhân kiến lập đàn tràng này.

Thủy Lục là gì? Thủy là chỉ những gì thuộc nước như sông suối, ao hồ biển… Lục là chỉ khu vực thuộc trên bờ, bao gồm núi non, cao nguyên đồng bằng, đất liền…Thủy Lục bao hàm từ hư không đến trên bờ dưới nước.

Đức Phật của chúng ta vì lòng đại từ đại bi muốn cứu độ khắp loài hữu tình nên mới cho lập ra pháp này. Nguyên nhân khởi đầu từ Tôn giả A-nan, khi Ngài đang ngồi nhập định trong rừng thì bỗng thấy có một quỷ vương đến cầu xin cứu độ, A-nan liền về núi Linh Thứu trình với Phật, Phật nhân đây thuyết pháp Thủy Lục. Thật ra quỷ vương này chính là hóa thân của Bồ-tát Quan Âm, vì thương chúng sinh đang chịu bao thống khổ và muốn cho các vong hồn nơi địa ngục được vãng sinh Cực Lạc nên mới xin lập pháp siêu độ.

Pháp hội này được thực hiện bắt đầu từ vua Lương Võ Đế. Vua phát tâm Bồ đề, tha thiết cung thỉnh Hòa thượng Chí Công chế định nghi thức lập Đàn Tràng Thủy Lục nhằm giúp các oan hồn uổng tử. Khi an trí đèn xong, vua lễ một lạy, sau đó mồi đèn thì lễ tiếp một lạy nữa, lúc này cung điện chấn động, vua lễ lần thứ ba thì trên trời mưa hoa báu xuống. Công đức Đàn Tràng Thủy Lục là vậy đó.

Đời Đường, Thiền sư Anh Công tổ chức Đàn Tràng này tại chùa Pháp Hải để cầu siêu cho vua Tần Trang Nhượng, Phạm Tuy, Bá Khởi, Vương Long Vũ, Trương Nghị, Châu Muội… vốn bị đọa cả ngàn năm, giúp họ siêu thăng cõi trời. Tiếp đến cư sĩ Tô Đông Pha đời Tống, Đại sư Liên Trì đời Minh cùng Thánh hiền bao đời liên tục bổ sung thêm vào khiến nghi thức lập Đàn Tràng Thủy Lục ngày thêm hoàn chỉnh. Vạn pháp do tâm tạo, mọi người thành tâm ắt có cảm ứng.

Vì không thể từ chối lời mời thỉnh thiết tha của chư vị nên tôi đành phải chủ trì Đàn Tràng này.

Trong thời kháng chiến, những binh sĩ xả thân báo quốc tử trận, hồn họ vất vưởng không chỗ nương, nghĩ đến ân đức này, ta lập đàn cầu siêu cho họ. Nghĩa dân bất khuất, trung với nước không quy hàng quân địch, nhà tan người mất, lưu lạc cõi hoang. Cô hồn vô chủ, lang thang khắp nơi, và những vong hồn chết oan, chết vì trúng đạn, xe tông, bệnh dịch, chết đuối, chết bất đắc kỳ tử… Chúng ta đều phải cầu siêu hết, để an ủi chúng sinh cõi u minh. Làm sao cho kẻ chết được an, người sống được ích lợi, âm-dương đều ổn.

Đây là lý nhân quả vần xoay. Đao lý con người không ngoài tiêu chuẩn: Chẳng làm việc ác, chỉ làm việc lành. Bao khổ đau trên thế gian này sở dĩ có, là do kiếp xưa ta từng gieo nhân xấu. Nếu sống mà cứ sát phạt, hại nhau, làm những điều tán tận lương tâm, sống bất hiếu phi lễ, không liêm sĩ khiêm cung, mặc tình làm càn làm quấy… thì thế gian này vẫn còn khổ đau ngút trời, chiến tranh loạn lạc vẫn tiếp diễn.

Muốn hòa bình, thì mọi người phải phát tâm Bồ đề, phát tâm từ bi rộng lớn. Tâm chúng ta tạo ra mười cõi: – Bốn cõi Thánh, sáu cõi Phàm. Bốn cõi Thánh là: Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, Phật. Cõi Thánh đã vượt khỏi tam giới, không bị luân hồi. Cõi cao nhất là chư Phật, kế là Bồ tát, Duyên giác, cuối cùng là Thanh văn. Sáu cõi Phàm là: Thiên, Nhân, A-tu-la, Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục… còn nằm trong biển khổ luân hồi. Cõi trời sau khi hưởng hết phước vẫn bị đọa. Cõi người chịu khổ sinh lão bệnh tử chi phối. Loài A-tu-la có phước nhưng không có đức bằng chư Thiên nên cũng bị hoại diệt. Loài súc sinh thọ khổ vui cũng không đồng. Rồng phượng, lân, sư tử sống sướng hơn loại trùng kiến thấp sinh, hóa sinh. Khổ vui trong loài quỷ cũng không đồng: những quỷ vương như Thành hoàng, Diêm vương hưởng vui nhiều và thọ khổ ít hơn loài ngạ quỷ. Còn cõi địa ngục thì toàn là khổ, khổ vô biên!

Đức Phật đại từ bi thuyết pháp, khiến chúng ta phát tâm Bồ-đề. Nhưng phát tâm cũng khác nhau. Bậc thượng thì phát tâm tu thành Phật. Bậc trung phát tâm tu thành Bồ-tát. Bậc hạ phát tâm tu thành Duyên giác Thanh văn. Chư thiên cũng có phát tâm Bồ đề, do nhân phát tâm lớn nhỏ khác nhau nên thành quả cũng không đồng. Chúng ta sống trong cõi người, nên phát tâm Bồ-đề rộng lớn, cứu độ chúng sinh. Nguyện dẹp trừ khổ – giúp chúng sinh siêu thăng – Nếu ai cũng phát tâm như thế thì cõi nhân gian không còn khổ.

Có người hỏi tôi về thần thông biến hóa – Rằng bao giờ thế giới hòa bình, vận nước tốt xấu ra sao? Tôi chỉ là phàm phu, đâu biết gì. Tôi giống như thân cây già nua khô mục, vô dụng. So với quý vị tôi chỉ hơn ở chỗ sống lâu nhiều năm, ngu si hơn nhiều năm, nghe nhiều hơn, nói nhiều hơn, xem Kinh nhiều hơn. Cảm thấy đời người nhiều khổ đau nên tôi mới nói mấy lời này. Quý vị đừng thắc mắc quốc gia chừng nào thái bình, an vui? Mà hãy nhìn vào tâm mình, ngày đêm cố gắng khắc phục mình, chớ để tâm mê, thiếu tỉnh giác. Quý vị hãy sống nhân từ trung tín, luôn động viên nâng đỡ nhau, giáo dục con cháu chu đáo, sống hòa thuận với quyến thân, đối tốt với láng giềng, bằng hữu. Nếu ai cũng làm được vậy thì thế gian tự nhiên thái bình. Còn nếu biết sai mà không sửa, thì khổ sẽ phát sinh, không tránh vào đâu được. Dầu lòng người có phức tạp thế nào, chỉ cần quý vị chịu điều phục tâm mình, sống như tôi nói, thì mọi việc đều ổn.

Hiện nay, con người chỉ biết tham mê chạy theo dục lạc mà không lưu tâm đến việc trau giồi đức hạnh, coi thường đạo đức, nhân phẩm. Kẻ có lương tâm thì buồn chán sống ẩn dật, vì nghĩ không còn dạy nổi thế hệ con, em. Chúng ta đừng để bị phong hóa tệ ở thế gian lôi cuốn. Phải hiểu rõ và tin sâu lý nhân quả báo ứng, hễ gieo nhân xấu thì gặt quả xấu. Quý vị cần bíu tâm chú trọng đạo đức. Lời xưa nói: “Nhà tích thiện có thừa điều vui, luôn được thần linh ủng hộ”. Nếu ai cũng sống hiền đức thì quốc gia nhờ đấy mà được thái bình.

Phụ lục bài ký:

CÂY HỒNG ĐÀO ỨNG ĐlỀM LÀNH

Trung Hoa Dân Quốc thứ 35 (1946), mồng 7 tháng 7 là ngày kỷ niệm tròn mười năm kháng chiến, chính phủ Quốc Dân thông báo và yêu cầu các tự viện toàn quốc tụng kinh cầu siêu cho chiến sĩ trận vong cùng đồng bào tử nạn. Khi tổ chức lễ, Hội Đồng Phật Giáo Tỉnh Quảng Đông cử đại biểu đến Vân Môn rước Hòa thượng Hư Vân quang lâm chủ trì Pháp hội ở Huệ Viên. Chủ tịch tĩnh là ông Trác Anh cũng phái người mang thư cung thỉnh, Hòa thượng xúc động nhận lời, đội nắng lên đường.

Ngày 17 tháng 9, tại chùa Tịnh Huệ lập Đạo Tràng Thủy Lục kéo dài 7 ngày. Lúc kết đàn, cây hồng đào bỗng trổ đầy hoa rực rỡ chói lọi, thật chưa từng có.

Nghe kể Hòa thượng trong lúc xiển dương Phật pháp ở tỉnh Điền, cây mai khô đã trổ đầy hoa. Còn khi Ngài đến Nam Hoa, thì cây Bách từ đời Tống đang chết khô bỗng sống lại.

Giờ đây được chứng kiến điềm lành này, quả là niềm vui của cõi nhơn thiên. Hoa nở cả tuần chưa tàn. Người đi xem đông nghẹt đường, còn Hòa thượng thì lặng lẽ đến đất Sán Đầu rưới giọt cam lồ của Nam Tông trên khắp vùng Lãnh Đông.

Công đức độ sinh của Ngài thật không bờ bến!

Hòa thượng có nguyện trùng hưng chùa Quang Hiếu, Kha Lâm sẽ lại tốt tươi, (chắc không còn xa nữa). Các bậc Long tượng ở miền Nam, Ngài đều khéo bảo vệ.

Pháp hội nghiêm vị tán Phi đào hoa mãn chi Như hà hoàng lạc hậu Điều biến diêm dương thời Hủy mộc thảng linh cảm U minh tùng khả tri Kha lâm cửu vô uế Hà nhật dữ gia trì

Pháp hội trang nghiêm chưa tàn Hông đào bỗng nở vô vàn sắc hoa Khi rơi rụng vẫn mặn mà Chuyển màu lấp lánh chói lòa vầng dương Cỏ cây linh cảm lạ thường Uminh theo đó tỏ tường biết hay Kha Lâm1 vô uế lâu dài Ngày ngày xanh tốt hưởng đầy pháp ânPhụ ghi:

ÍCH LỢI CỦA ĂN CHAY

Tháng mười một âm lịch năm nay, chuyến xe lửa tốc hành Quảng Đông khởi hành từ Hồ Bắc tới Quảng Châu. Khi đi ngang qua Anh Đức thì xe dừng lại để ăn trưa. Ăn xong mọi người đều lên xe. Chỉ duy nhất một hành khách người Hồ Nam ăn chay trường, thấy gần trạm chẳng có chỗ nào bán đồ chay nên anh đành phải đi vào chợ kiếm hàng chay dùng. Ăn xong, anh vội vã về trạm lại, thì xe cũng vừa chạy. Anh kêu thất thanh. Chỉ biết than trời, lòng đầy phiền muộn. Còn xe lửa chạy tới giữa cây cầu sắt Anh Đức, thì cầu bỗng gãy đôi, hỏa xa rơi thẳng xuống sông, hơn hai ngàn người trên xe đều bị nạn. Chỉ riêng anh chàng ăn chay nọ là được may mắn sống sót.

DÂN QUỐC 36 (1947) ĐINH HƠI – 108 TUỔI

Mùa xuân, tôi về truyền giới giảng Kinh tại Nam Hoa. Mùa hạ, nhận lời Tam Viện Đông Hoa Hương Cảng thỉnh, tôi đi đến Hương Cảng mở Pháp Hội Bình An, quy y cho mấy nghìn người, đến Áo Môn giảng Kinh đả thất, quy y mấy nghìn người. Đến Thạch Kỳ, huyện Trung Sơn, lập Pháp Hội Đại Bi, lại quy y cho mấy nghìn người nữa. Xong việc, tôi về chùa Vân Môn lo đốc thúc các công trình xây cất cho mau hoàn tất.

Các bài giảng:

BUỔI ĐÀM ĐẠO TẠI HƯƠNG CẢNG

(Đông Liên Giác Uyển 1947)

Dù là duyên khó gặp, song quý vị bảo tôi khai thị – Tôi thật là hổ thẹn. Lần này tôi nhận lời mời của Tướng quân Trương Phác Khuê và Chủ tịch LaTrác Anh đến Quảng Châu lập Đạo Tràng Thủy Lục cầu siêu cho các vị đã mất trong Thế chiến thứ hai. Và cũng vì đã hứa trước với Hội Phật Giáo Hương Cảng và chư Phật tử, nên tôi đến đây.

Hôm nay, chúng ta được gặp nhau, cùng tụ hội tại Giảng Đường này, quả là nhân duyên hi hữu. Nếu bảo tôi khai thị pháp yếu, tôi rất hổ thẹn. Một là ngôn ngữ không thông, diễn đạt bất tiện. Hai là, tôi chưa thể khai thị cho mình thì làm sao dám nói khai thị cho người? Vì vậy tôi chỉ xin cùng đàm đạo với quý vị mà thôi.

Người Hương Cảng thật có phúc vì được nghe Phật pháp thường xuyên. Là đệ tử Phật, chúng ta thừa hiểu Phật pháp khó được nghe, vậy mà ở Hương Cảng được chư Sư tới thuyết pháp rất thường. Sao có thể nói là người Hương Cảng ít phúc báo? Trong việc hoằng pháp, chẳng nên chấp hình tướng bên ngoài. Kinh nói: “ Tất cả vật có hình tướng đếu là hư vọng” Và: “chúng sinh đều có đủ trí huệ phước đức của Như Lai” sở dĩ chúng sinh chưa thành Phật vì bị phiền não trần cấu làm mê hoặc.

Chúng sinh do quên mất chân tâm nên khởi mê tạo nghiệp xấu, chiêu vô lượng thống khổ. Bị tam độc tham, sân, si hành xử, nên tạo tội sát, đạo, dâm, vọng… dẫy đầy, vì ác nghiệp này mà luân hồi không ngừng, quán xét tận gốc sẽ hiểu ra chỉ vì tâm mê, chấp cảnh. Nếu thường giác, bỏ vọng về chân thì sẽ trừ sạch hết thống khổ trầm luân.

Vì sao có tham, sân, si khiến tạo ác nghiệp sát, đạo, dâm, vọng?

Nếu tâm thanh tịnh thì thế giới sẽ được thanh tịnh, nhân dân sống an. Tâm chứa tham, sân, si là tâm bệnh, muốn dẹp trừ tam độc này thì phải dùng pháp Phật điều trị, có nghĩa là phải thực hành lời Ngài dạy. Quý vị hãy chọn pháp môn thích hợp để chuyên tâm thực hành,

Người học Phật không nên hướng ngoại tìm cầu, trừ được nghiệp chướng thì dứt trầm luân. Kinh nói: “Phật thuyết tất cả pháp vì trị tất cả tâm, nếu không tất cả tâm thì cũng không có tất cả pháp”.

Tâm này là chỉ cho vọng tưởng, nếu quý vị không bệnh thì đâu cần uống thuốc làm gì.

Học đạo cần có tín tâm. Kinh Phạm Võng nói: “Ta là Phật đã thành. Chư vị trong tương lai cũng sẽ thành Phật”. Có được niềm tin này thì giới phẩm sẽ đầy đủ.

Đời người như mộng huyễn, giống hệt một vở kịch. Vì sao tất cả pháp hữu vi trên thế gian là mộng? Bởi trong tuồng kịch, các nghệ sĩ nhận vai rồi thì cứ theo tuồng mà diễn, trong lúc diễn thể hiện đủ tình tiết hỉ, nộ, ái, ố… người đóng vai vua thấy oai phong lẫm lẫm, khi nghệ sĩ ở trên sân khấu thì diễn đủ trò; thiện, ác, hiền, dữ… nhưng xuống đài rồi thì chỉ là thường nhân, kẻ hiểu chuyện thì chỉ cười mà bảo: “Đóng tuồng ấy mà!”

Vì sao có khổ đau, vui vẻ? Khi diễn tuồng thì những tình tiết buồn thương giận ghét có đủ, nhưng chỉ là giả, tàn kịch rồi thì hết, không có gì là thật. Chúng sinh cũng vậy. Lúc chưa dứt sạch phiền não thì vinh hoa phú quý, vui, buồn, giận, ghét… xuất hiện rõ ràng. Song bản chất mọi người vốn là Phật, chỉ vì mê nên chạy theo những tình tiết phiền não trên sân khấu mà không biết đó là giả. Cuộc sống người ta cũng như vở kịch trên đài. Được lên Thiên đường chưa phải là vui, xuống Địa ngục chưa phải là khổ. Chẳng phải nam, chẳng phải nữ – vì Phật tính đồng một thể. Người đời không biết, trong mơ tự phân biệt đây là người, là mình, chia chẻ thân sơ oán ân… mê muội chạy theo không dừng. Người xuất gia tuy lìa thân quyến nhưng lại mê chấp vào chùa, am Thầy, Tổ, đệ tử v.v..

Người tại gia bị ái dục thế tình thì gọi là mê muội, nhưng người xuất gia cũng bị pháp hữu, pháp quyến mê hoặc. Nếu còn như thế là chưa đạt được giác ngộ chân chánh, phải nỗ lực thoát ly hết mọi mê hoặc, chịu bỏ vọng về chân thì mới thành Phật. Bỏ vọng quay về chân, tự lợi lợi tha. Lục Tổ khi nghe câu: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” thì ngộ. Tâm này không thể dùng lời giải thích, mà phải tự lãnh hội. Chân lý của đạo Phật không thể dùng ngôn ngữ văn tự hiển thị. Nhưng nếu phế bỏ ngôn ngữ văn tự cũng không được, vì nhờ ngôn ngữ văn tự mà hiển lý. Người hoc Phật ngày nay nên nghiên cứu tất cả giáo lý Phật, song phải lấy việc thực hành làm chính, rồi sau đó hoằng pháp để ngọn đuốc tuệ được lưu truyền mãi mãi.

“Tương thử thâm tâm phụng trần sát, thị tắc danh vi báo phật ân”. – Nguyện đem thân tâm này phụng sự chúng sinh như vi trần mới là báo ân Phật. Hi vọng quý vị lấy hai câu này làm tiêu chuẩn sống, tự lợi lợi tha đầy đủ.

PHẢI HIỂU NHÂN QUẢ – QUI Y TAM BẢO

Thứ Hai, 1/8/1947 Đinh Hợi

Tâm chúng sinh và Phật vốn không khác biệt. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo nên. Nếu theo vọng niệm điên đảo thì sinh ra sáu cõi Phàm, còn không chạy theo thì sẽ vào bốn cõi Thánh. Thường quán sát, sẽ thấy Thánh hay Phàm đều do tâm uế hay tịnh mà hiện. Tâm phàm phu cấu uế khiến hiện ra sáu đường thiện ác tội phước. Bốn cõi Thánh do tâm thanh tịnh tạo thành, nên uy đức, tự tại quang minh, phước tướng, dung mạo từ bi.

Khổ hay vui đều do tâm, quý vị tự tạo nghiệp rồi thọ báo, muốn biết ở cảnh Thánh hay Phàm, nhìn lại lòng mình sẽ rõ.

Phàm phu ngu mê chẳng hiểu tất cả do tâm tạo nên gặp nghịch cảnh thì trách trời oán người, gặp thuận cảnh thì kiêu căng, dương dương tự đắc. Hoặc cả đời làm thiện mà chiêu quả ác nên khởi tâm nghi, hay làm ác lại được hưởng quả lành nên hủy báng nhân quả.

Phải hiểu Lý nhân quả rất thâm sâu, sau khi ta gieo nhân, quả nào chín muồi thì tới trước. Đời nay tuy mình tạo nghiệp lành mà bị chiêu quả xấu, thì phải hiểu là nhân ác trong quá khứ đã hội đủ duyên, đã đến lúc chín mùi nên quả trổ trước thì mình phải lãnh thọ. Còn Nhân lành đời nay gieo do quả chưa chín nên hiện tại chưa được hưởng. Nếu tin sâu, hiểu rõ điều này thì sẽ không khởi tâm nghi. Từ vô thủy mê muộỉ, ta tạo biết bao tội nghiệp oan khiên sâu nặng, bây giờ quả chín, tới lúc nó trổ thì ta phải nhận, không thể trốn tránh. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tất cả chúng sinh sinh tử triền miên vì không biết chân tâm thường trụ, thể tịnh tính sáng, do sống với vọng tưởng nên mới bị luân hồi”.

Muốn thoát khổ ta phải làm sao? Không muốn thọ báo trong sinh tử luân hồi thì phải tịnh hóa vọng tưởng, vọng tưởng được tịnh rồi thì luân hồi dừng. Vì vậy tâm mê thì gọi chúng sanh, tâm giác gọi là Phật. Phật và chúng sinh khác nhau ở mê và ngộ. Phải biết tâm tính diệu minh sáng suốt này ai cũng có. Phàm phu tuy có, song giống như vàng còn nằm trong mỏ, bị đất cát phiền não bao phủ nên không thể dùng được. Còn Phật do nhiều kiếp tu hành, cát đá lậu hoặc đã được lọc sạch, thuần là vàng ròng tinh khiết nên đại dụng vô cùng, vì vậy mà được gọi là Thế Tôn, Đấng Giác ngộ viên minh, vượt khỏi chướng ngại. Ta muốn tu thành Phật, trước phải xem nhân phát tâm của mình ra sao và phải trừ tận gốc phiền não. Gốc phiền não nếu sạch thì Phật tánh hiện, nếu nhân tu không chánh thì phải chiêu quả báo cong vạy.

Bước tập tu đầu tiên là phải Qui y Tam bảo, – Các điều ác không làm, chỉ làm toàn điều thiện – Rồi từ đó mà tu thân, tề gia, trị quốc bình thiên hạ, nếu không gieo nhân khổ thì quả khổ sẽ tiêu, vượt thoát ba đường khổ, siêu thăng cõi lành, nhập Phật thừa. Đây là nền tảng cho người tu Phật. Tam quy Ngữ giới là bờ bến của người đời, là Diệu pháp ban vui cứu khổ. Tam quy là: Qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng.

Qui y Phật: Phật là Đấng giác ngộ hằng an lạc, xa rời khổ, Ngài hướng dẫn chúng sinh thoát mê về giác, vì vậy ta nên Qui y Ngài, hành giáo pháp Ngài để thoát khổ. Phật Thích Ca là giáo chủ cõi Ta-bà, nên bước đầu tiên là phải Qui y Phật.

Qui y pháp: Tức nương theo pháp môn Phật truyền dạy, ba đời chư Phật đều hành theo pháp này thành tựu vô lượng công đức thanh tịnh, nay ta muốn quay về nguồn cội, tịnh hóa thân tâm, dẹp trừ cấu uế thì phải Qui y Pháp.

Qui y Tăng: Chánh pháp phải có người gánh vác hoằng truyền, xả thân vì đạo, xiển dương Phật pháp, dùng văn, tư, tu chứng quả thành Phật, Nếu Phật pháp không người thuyết giảng thì khó lãnh hội. Phật pháp thâm sâu khó hiểu, phải nhờ chư Tăng giảng giải, nên ân đức các Ngài rất lớn, vì vậy phải Qui y Tăng.

Tam bảo có ba: Nhất thể Tam bảo, Biệt tướng Tam bảo, Trụ trì Tam bảo.

Nhất Thể Tam Bảo: Là thể của nhất tâm. Phật là Đấng giác ngộ, một niệm linh minh, tâm sáng suốt là tự tánh Nhất thể Phật bảo. Pháp đầy đủ ba đức: Phật, Pháp, Tăng. Pháp còn nghĩa là Quỹ trì: Gìn giữ quy tắc, khuôn phép. Tự tánh Nhất thể Tam bảo có thể giữ gìn khuôn phép của thế gian và xuất thế gian.

Tăng là một đoàn thể tu sĩ hòa hợp. Tâm giác có khả năng hành trì tất cả pháp. Tâm là pháp, muôn pháp đều quy về một tâm. Tâm đầy đủ Phật, Pháp, Tăng nên có tên là Nhất Thể Tam Bảo. Chúng sinh mê tâm hướng ngoại tìm cầu nên trôi lăn trong sinh tử, Phật nhờ giác tâm này nên chứng được Bồ đề.

Biệt Tướng Tam Bảo: Danh tướng của Phật, Pháp, Tăng không đồng. Phật là giác ngộ bản tâm, thấu đạt thật tướng, gọi là tự giác. Dùng pháp tu chứng này giác ngộ cho tất cả chúng sinh gọi là Giác tha. Tự giác, Giác tha đều đầy đủ nên gọi Giác hạnh viên mãn. Ba đức này tròn đầy nên thành Phật. Đây là Biệt Tướng Phật Bảo. Phật tùy cơ thuyết pháp Kinh, Luật Luận khác nhau là Biệt Tướng Pháp Bảo. Theo giáo lý tu hành trình tự tu chứng không đồng, là Biệt Tướng Tăng Bảo.

Trụ Trì Tam Bảo: Sau khi Phật nhập diệt, tượng Phật dù được làm bằng xi-măng, gỗ, thạch cao… hay tranh vẽ… đều là ruộng phước cho chúng sinh, nếu biết cung kính hình, tượng như Phật còn tại thế thì công đức không thể nói hết. Vì trụ mãi không tuyệt mất nên gọi là Trụ Trì Phật Bảo. Tất cả kinh điển chép lời dạy của Phật được lưu truyền giáo hóa chúng sinh không ngừng, khiến chúng sinh hành trì theo đó ly khổ được vui, vì vậy nên gọi là là Trụ Trì Pháp Bảo. Người xuất gia cạo tóc, mặc pháp phục Như Lai, xiển dương đạo pháp, hóa độ chúng sinh, nối tiếp hạt giống Phật là Trụ Trì Tăng Bảo.

Trụ Trì, Biệt Tướng, Nhất Thể… đều được gọi là Bảo, là quý báu vì không bị pháp thế gian làm tổn hại hay phiền não làm nhiễm ô. Bảy báu thế gian như vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách… được coi trọng, song hưởng dụng một thời gian rồi cũng hết, vì chúng chỉ giúp cho lúc sống, chứ không thể độ tử. Thế nhưng Tam bảo có thể giúp chấm dứt vô biên sinh tử, khiến người xa lìa khổ não rầu lo, được hạnh phúc an vui mãi.

Tam bảo tuy gọi nhiều tên nhưng xuất phát từ một tâm. Vì tất cả do tâm tạo. Tâm nhiếp thọ tất cả, vốn viên mãn đầy đủ giống như viên ngọc như ý. Vì vậy mới nói là Tự qui y Phật, Tự qui y Pháp, Tự qui y Tăng – chứ không hề nói Qui y tha – là tựa nương bên ngoài.

Qui nghĩa là xoay vào – là quay về nguồn cội. Sáu căn chúng sinh phát xuất từ một tâm. Vì bỏ gốc chạy theo sáu trần nên phải thu nhiếp sáu căn quay về tâm, nên gọi Qui mạng. Vì vậy Qui y cũng có nghĩa là Qui mạng.

Y là y theo, nương theo. Do chúng sinh chạy theo âm thanh sắc tướng nên bị trôi lăn trong biển khổ không có chỗ nương, dừng. Nay Qui y Tam bảo thì thân có chỗ quay về, tâm có chỗ nương. Nhờ chọn Tam bảo làm Thầy nên có thể thoát u mê, phát tâm bồ đề, hành đạo tu giác, cho đến khi thành Phật.

Qui y Tam bảo xong thì phải y theo pháp mà tu hành để thoát khỏi sinh, tử, thoát khỏi phiền não trói buộc của thế gian. Bước nhập môn đầu tiên, ngoài năm giới cấm ra không còn phương pháp trợ giúp nào khác. Do vậy mới có câu: “Nếu không giữ năm giới thì đường sinh lên làm trời, người cũng bị cắt đứt”.

Do vậy mà Giới là nền tảng quan trọng giúp tạo đều thiện, phế bỏ hạnh ác – là cội nguồn của đức hạnh, là phương cách giúp người ta siêu phàm nhập Thánh. Nhân Giới sinh Định, từ Định sinh Huệ, nhờ Giới, Định, Huệ mà thành chánh giác. Nên nói: “Giới là cội gốc của đạo Bồ-đề vô thượng”.

Phật phương tiện khai mở pháp môn, đầu tiên thuyết Tam qui y, tiếp đến dạy Ngữ giới, chế ra giới Đại thừa Tiểu thừa v.v… Do căn cơ và tâm tính chúng sinh không đồng nên giới có từ cạn đến sâu từ thô đến tế, nhưng cứu cánh chỉ là một.

Năm giới: Không sát, đạo, dâm, vọng, không dùng các chất gây nghiện làm thần trí hôn mê. Năm giới này là điều căn bản, bắt buộc đệ tử Phật phải học và tuân giữ khi nhập môn. Đây là cửa ngõ đưa đến thành tựu. Năm giới này là điều phải học, phải hành, phải truyền bá, nam nữ cư sĩ đều phải hành trì. Năm giới này tạo nên vô lượng công đức, vì vậy mà bước đầu tiên người sơ cơ học Phật phải Qui y, thọ trì Ngũ giới. Nền tảng này không thể thiếu.

Năm giới này nhà Nho gọi là Ngũ thường: Nhân Lễ, Nghĩa Trí, Tín. Nghĩa là người nhân từ thì không giết hại, người nghĩa khí không trộm cắp, người có lễ nghĩa thì không tà dâm, người trí không dùng chất say gây nghiện, người tín không nói láo.

Người Phật tử nếu giữ được năm giới thì không muÓn hoàn toàn cũng thành người hoàn toàn, không mong thành nhân đức cũng thành nhân đức.

Không cầu lễ nghĩa mà lễ nghĩa tự thành, tâm trí tự nhiên sáng suốt, sống có uy tín. Nhân phẩm trở nên tôn quý, được người trọng vọng ái kính.

Đầu tiên nói về giới Không sát sinh:

Mạnh Tử nói: – “Nghe tiếng vật kêu la chẳng nỡ ăn”. Mạnh Tử còn nói thế, chúng ta là đệ tử Phật sao lại mê mờ, khởi tâm giết hại chiêu lấy quả khổ vô biên về sau? Do vậy mà Phật chế giới không sát sinh cốt để ngăn khổ cho chúng ta. Các đệ tử Phật nếu muốn hành đạo, bước đầu tiên phải nuôi dưỡng lòng từ, không được sát sinh. Nếu giữ giới này thì không còn bị luân hồi đền mạng. Ngoài việc ỷ mạnh hiếp yếu, tham mùi vị, hoặc vì tiền tài, kế sống mà sát sinh. Giết hại phát xuất từ ác tâm. Nếu ta tạo nghiệp sát, cứ mạnh tay giết chóc thì tự kết oán cừu. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Người chết thành dê, dê chết thành người. Do ăn nuốt nhau mà quả báo vần xoay, ác nghiệp dẫy đầy chiêu quả xấu không có ngày dứt. Giết người phải đền mạng, giết súc vật cũng phải đền mạng”.

Quý vị hãy nhớ tích xưa trong sử, ngày mà vua Tỳ Lưu Ly giết sạch giòng họ Thích-ca, Đầu Đức Phật cũng bị nhức thống thiết. Nguyên nhân từ đâu? Đó là vào kiếp quá khứ xa xưa, khi giòng họ Thích là dân làng chài và đức Phật Thích-ca là một cậu bé trong làng chài đó. Khi dân chài bắt được con cá lớn, sắp giết thịt ăn, cậu bé tiền thân Phât đã đùa nghịch lấy cây đánh vào đầu nó ba cái. Con cá lớn đó chính là tiền thân vua Lưu Ly, khi sinh làm người đã giết sạch giòng họ Thích ca, còn đức Phật cũng trả báo nhẹ là bị nhức đầu.

Chuyện này không thể không tin – nhưng báo ứng rất rõ ràng và đáng sợ. Quý vị nên quán sát cho kỹ. Vì lý do này mà Phật cấm sát sinh.

Không những Phật từ bi với con người, mà còn thương cả đến loài trùng kiến nhỏ nhoi. Bởi vì trong cái nhìn của phật, tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Kinh Phạm Võng nói: “Tất cả nam nhân là cha, tất cả nữ nhân là mẹ”. Chúng sinh trong sáu đường trầm luân lưu chuyển, từng làm cha mẹ quyến thuộc của nhau. Vì vậy mà giết hại chúng sinh cũng xem như là giết hại cha mẹ.

Người đời không biết, không tin thuyết này nên mặc tình mặc sức giết hại, ăn nuốt lẫn nhau. Do vậy Thế Tôn mới chế giới cấm giết, bởi vì tất cả sinh linh đều có Phật tính. Quá khứ họ từng là cha mẹ chúng ta, tương lai cũng có khả năng thành Phật, sao ta lại dám giết hại? Chúng ta không nên có tâm giết hại.

Hiện nay, nhân loại giao tranh, đã chế đủ thứ vũ khí giết người, sát phạt nhau bất kể trên không, đất bằng hay dưới nước. Lòng người ngày càng hiểm ác, đường đời ngày càng đảo điên. Chuyện tương sát tương tàn này đến bao giờ mới dứt? Nếu không tìm cách cứu vãn thì thế gian này sẽ thành biển khổ sục sôi lòng cừu hận. Người trí nhìn không khỏi đau lòng. Quý vị phải cố gắng gìn giữ hòa bình, nỗ lực cứu vãn nhân tâm mê muội, giúp mọi người trở về nẻo chính. Hãy trọng lòng nhân chứ đừng trọng vũ lực. Đừng tham đắm mùi vị ngon hay vì lợi mà sát hại. Đừng bao giờ khởi tâm sát – nghiệp sát nếu ngưng – thì kiếp hoại sẽ dừng. Dưỡng lòng nhân là hành đúng đạo lý.

Quý vị cần quán sát cho kỹ, phải tin sâu nhân quả, phải hiểu nhân quả không sai như bóng theo hình. Nếu tin sâu nhân quả, thì trong lòng dù chưa sửa đổi, hạnh thiện cũng đã thành, vì mỗi khi hành động nghĩ suy. Quý vị không thể không cân nhắc, cho nên hành vi tự nhiên theo thiện.

Quý vị nên biết những tai họa đời này là do nhân ác trong quá khứ quý vị đà gieo. Các tai nạn như: binh đao, chiến tranh, lụt lội, hỏa tai, địa chấn… đều do quả đã chín mùi – tới lúc trổ thì quý vị phải nhận. Nhân thiện chiêu quả thiện – Bằng chứng là trong hai trận Thế giới chiến vừa qua, chỉ có Hoa kiều ở Úc là được bình an. Vì sao ư? – Vì trong tiền kiếp họ không tạo nghiệp sát. Những ai thường gặp tai nạn là do ác nghiệp, biệt nghiệp chiêu cảm. Quý vị là Phật tử thì phải hiểu thấu suốt Lý nhân quả khó nghĩ khó lường này. Nếu tin sâu nhân quả quý vị sẽ không dám giết hại. Nếu người trên thế gian này chịu giữ giới không giết hại thì tất cả vũ khí đều hóa ra vô dụng.

Giới đầu tiên, Phật cấm không sát sinh là vì muốn mọi người có lòng nhân, sống biết thương người, hộ vật, tự giải khổ cho mình và người, ai ai cũng được sống trong cảnh an lạc.

Giới thứ Hai là Không trộm cắp:

Phật dạy ngay cả cây kim cọng cỏ, người không cho chớ lấy. Song chúng sinh chỉ thấy lợi trước mắt. Do tham tâm không biết đủ. Tội nặng nhất là trộm cướp và lạm dụng của mười phương Tăng chúng. Ngay cả vật dụng của cha mẹ, Sư trưởng không cho, chớ nên lấy, nếu lấy cũng là phạm tội nặng.

Nếu quý vị thâm tín nhân quả, chẳng phạm mảy tơ thì giới hạnh tự thành. Ai cũng được vậy thì đêm ngủ chẳng cần đóng cửa.

Giới thứ Ba là Không tà hạnh:

Người xuất gia thì ly dục hẳn, còn người tại gia thì không được tà dâm. Đối với vợ, chồng người, nên giữ lòng ngay thẳng đoan chính. Do nhân duyên ái dục mà chúng sinh trăm kiếp ngàn đời bị trầm luân, cũng từ ái dục mà phát sinh trộm cắp giết hại. Thường giữ giới không tà dục tự nhiên uy nghi đức hạnh tự thành lập. Gia đình vui hòa thủy chung.

Giới thứ Tư là Không nói láo:

Người nói láo thường vì hư danh lợi dưỡng, cũng không được dối xưng mình chứng Thánh, đây là tội đại vọng ngữ sẽ bị đọa địa ngục Vô gián. Người học đạo phải cẩn trọng. Giữ giới này thì được người kính và có uy tín lớn, không cầu danh mà danh thơm tự đến, không cầu lợi mà phúc tự về.

Giới thứ Năm là Không uống rượu:

Bao gồm không dùng những chất có tính gây say, nghiện hay làm thần trí hôn mê. Người buôn bán các vật cấm này cũng bị quả báo năm trăm đời không có tay. Phạm giới này, thần trí mê mờ ắt sẽ làm nhiều điều bại hoại mất tư cách, không những phạm thêm nhiều tội ác mà còn gieo nhân ngu si vô số kiếp về sau. Do vậy mà Phật cấm.

Nếu quý vị khéo điều tâm, không theo vọng tưởng, thì ác nghiệp chẳng sinh. Nhiếp tâm là Giới, nhờ Giới sinh Định, do Định có Huệ. Quý vị khéo điều tâm thì tham, sân, si chẳng khởi, ác nghiệp chẳng còn tạo. Tự mình nhiếp tâm, làm muôn hạnh lành, nhờ vậy công phu tăng tiến, bản thân được an lạc và còn gieo ảnh hưởng lây đến người khác, cảm hóa họ thực hành theo.

Nhờ hồng ân Phật, quý vị được Qui y Tam bảo, được thọ Năm giới cấm, giải khổ cho mình. Ân chư Phật lớn lao vô ngần, dẫu nát thân này, quý vị cũng chưa thể đáp đền trong muôn một.

Nghe tôi giảng về Tam qui Ngũ giới rồi thì quý vị hãy thực hành. Hãy nghĩ xem, một thôn làng nếu trăm gia đình có được mười người giữ ngũ giới thì mười người này được an lạc. Trăm người tu Thập thiện thì trăm người sống tương kính vui hòa. Nếu nhà nhà y theo pháp Phật tu hành thì nhà nhà đều nhân từ, sống an.

Hành một việc lành là loại được một việc ác, tiêu đi một hình phạt. Cả nước thực hành điều lành thì cả nước an, được vậy thì vị Nguyên thủ quốc gia không cần nhọc nhằn lao tâm trị nước mà vẫn có thể ngồi yên, toại hưởng thái bình. Thế nên, quý vị thọ trì Năm giới không những làm theo lời Phật dạy mà còn giúp ích nhiều cho đất nước mình, bản thân quý vị chẳng những là một công dân không phạm pháp mà còn đóng góp đức hạnh duy trì sự thịnh trị, bình an cho nước nhà.

Đây là những điều kiện căn bản, bắt buộc người Phật tử phải tuân theo, xin quý vị hãy kiên tâm hành trì, không những huân vào cho mình tập khí tốt, khiến hạt giống Phật được trưởng dưỡng càng sâu. Khi hạnh giải tương ưng đầy đủ thì quý vị đến giác ngạn.

Cầu mong quý vị từ đây về sau, luôn có chánh kiến, chánh ngữ, chánh hạnh, chánh tư duy, hằng tinh tấn tu hành, không những quý vị tự tu mà còn khuyên bảo người khác tu, để mình và người cùng dứt khổ. Được vậy thì ách nạn nào mà chẳng tiêu trừ. Thọ Tam qui Ngũ giới tức là quý vị chẳng làm điều ác, luôn hành điều lành, khéo điều phục tâm. Được vậy thì quý vị đã tạo công đức vô lượng, quả Phật nhất định có kỳ.

Bài giảng tại Quảng Châu:

Ý NGHĨA “TÂM BÌNH”

Chủ Nhật 27/9/1947 Đinh Hợi

Lục Tổ nói: “Tâm bình cần gì trì giới”. Tôi xin giải về hai chữ “Tâm bình”.

Nói thì dễ, nhưng hành được rất khó. Phàm phu chúng ta thường bị bát phong tức – tám gió – thổi làm điên đảo ngửa nghiêng. Tám gió ấy là lợi, suy, hủy, dự, tán, mạ, khổ, lạc. Gặp lợi thì mê đắm, bị suy thì buồn thảm, bị hủy thì sinh lòng sân, được khen thì tâm thần bay bổng, được đề cao thì tự đắc, bị mạ nhục thì uất ức oán hờn. Bị khổ thì ngửa nghiêng, được vui thì mừng đến tán loạn.

Cả ngày quý vị bị tám gió thổi bay, vậy lúc sinh tử đến làm sao ứng đối? Quý vị phải tập tu: – Khởi tâm động niệm đều bình thản, định tĩnh, hằng tu mười điều lành . Vọng là sóng trên mặt nước, phải thu nhiếp vọng về tĩnh lặng, được vậy mới mong đạt đạo.

Tu thì hãy chuyên tâm hành một pháp, đừng sáng mưa chiều nắng, thay đổi liền liền, rốt cuộc chẳng tiển đến đâu.

Mong quý vị hãy trân trọng, tinh tấn tu.

DÂN QUỐC 37 (1948) MẬU TÝ – 109 TUỔI

Sau Giới đàn mùa xuân, tôi đi Huệ Viên giảng kinh và khai mạc Y Viện Phật Giáo Chí Đức rồi trở về Đạo tràng Từ Hàng Tịnh Uyển ở Sa Điền, Hương Cảng, giảng Kinh. Nhận lời mời của Giám viện Trí Lâm, tôi mở thất niệm Phật, thuyết Tam quy Ngũ giới cho chúng. Rồi đến Đông Liên Giác Uyển bái sám, xong việc tôi trở về Vân Môn.

Tháng 5, Pháp sư Giới Trần thị tịch ở Điền Nam, Tôn Phật Hải viết bài về Sư.

PHÁP SƯ GIỚI TRẦN

Pháp Sư Giới Trần, tự Địch Ngô, họ Khâu, người Hán Xuyên. Sư xuất gia năm 19 tuổi, cùng kết bạn tu với ngài Hư Vân Đức thanh, cất am tranh ở Chung Nam, nhất tâm thiền duyệt. Có lần, Sư lâm bệnh, trong mộng vẫn niệm chú vãng sinh không ngớt. Bỗng thấy am tranh hóa sắc vàng, ánh sáng lặng lẽ. Khi tỉnh giấc liền khỏi bệnh. Qua cảm ứng này, Sư biết mình có duyên với Tịnh độ, bèn chuyên tu niệm Phật.

Cuối đời Quang Tự (1908), Sư chống tích trượng sang tỉnh Điền, trụ ở Kê Sơn, nhập thất ba năm, hai chân đều bị thủng, nhưng vẫn kiên trì không lười mỏi.

Khi đến Hàng Châu, Sư vào Đại Học Hoa Nghiêm, thâm nhập giáo hải, có trước tác bộ Hoa Nghiêm Nhất Trích cùng Hoa Nghiêm Ngũ Châu, Tứ Phần Thất Xứ Cửu Hội Đồ.

Khi trở lại chùa Phật Viên, Sư nhập thất ba năm, dốc lòng tu Tịnh độ, biên tập các sách: Liên Xã Minh Huấn, Tịnh Độ Tông Tập Yếu Ngữ, sau đó trở về tỉnh Điền, lập Tịnh Độ Liên Xã.

Sư tánh hạnh chơn thật, giới luật tinh nghiêm, am tường giáo điển. Ai đến tham vấn đều giải đáp, số đạo tục quy y có đến mấy vạn.

Sư nhớ ở Thiên Thai lãnh chúng, chưa tịnh lục căn nên chánh tâm nhiếp thọ, lòng băn khoăn mãi, bèn đến nhập thất ở Đông Lâm ba năm. Trong thất làm một quyển Nghệ Ngữ, khồng chiu theo tình đời, nên chẳng lo tổn mình.

Sư làm chủ Liên Xã, gặp Cung Trúc bị hư phế, bèn nhận chức Trụ trì, đích thân hướng dẫn chúng. Chùa viện ngày càng rạng rỡ song sức Sư thì yếu dần.

Một hôm, Sư đến chùa Vân Thê giảng Luật Tứ Phần, trợt chân ngã té, Sư bệnh nằm trên giường. Thị giả dâng cháo, Sư nói:

– Đã quá ngọ rồi, ta trì luật mấy mươi năm nay, chẳng lẽ phút sau cùng lại để khiếm khuyết ư? Hãy vì ta trợ niệm là đủ rồi.

Tối đó, hơi thở Sư yếu dần, giây lát thì viên tịch. Lúc này nhằm ngày 21 tháng 5, năm Dân Quốc 37 (1948), Sư thọ 71 tuổi, 53 tuổi hạ.

Khi nhập khám, dung nhan Sư vẫn như lúc còn sống. Bảy ngày sau mới làm lễ trà tỳ. Tứ chúng niệm Phật, âm thanh chấn động cả sơn cốc. Thiêu xong, được xá lợi hơn trăm hạt, đem về thờ tại Tháp Hải Hội”. ’

(Đệ tử Bồ tát giới Tôn Nhạc Phật Hải kính cẩn soạn).

Ngài Hư Vân kể:

Mùa đông, có một nữ sĩ người Mỹ tên Chiêm Ninh Sĩ (Anada Jenning) đến cầu giới, tôi vì cô lập thiền thất, cô hoan hỷ trở về.

Phụ ghi:

NỮ SĨ CHIÊM NINH

Mùa đông năm Dân Quốc 37 (1948) Mậu Tý, có một nữ sĩ người Mỹ tên là Chiêm Ninh Sĩ, hâm mộ thiền đức của Sư, từ nghìn dặm bay sang Trung Hoa. Việc này đã được nhà đương cục ngoại giao của hai nước Trung-Mỹ thông báo, Sư bằng lòng. Bây giờ, Sư ở tại Huệ Viên, bà đến xin tham vấn, thuật lại chuyện tu học của mình: Cha và chồng của bà là tín đồ Thiên Chúa giáo. Bà đã nghiên cứu nền Thần học của tôn giáo này suốt hai mươi năm. Thấy vẫn không liễu, bèn đi du lịch các nước, học Phật pháp. Bà đã đến Ấn Độ tịnh tu bốn năm, cũng có sở đắc, nhưng chưa dứt nghi, nay chẳng nề nghìn dặm xa xôi đến tìm Thầy v.v…

Rồi bà đến Nam Hoa chiêm lễ Lục Tổ, quy y và được Sư ban pháp danh Khoan Hoằng. Sư lập thiền thất cho bà. Tứ chúng đến chiêm lễ rất đông. Thất thứ nhất, Sư thượng đường khai thị:

– Nếu luận về việc này, vốn tự viên thành, tại Thánh chẳng tăng, tại phàm chẳng giảm. Đức Như Lai luân hồi trong Lục đạo, đạo đạo đều nghe danh hiệu Ngài. Đức Quán Âm lưu chuyển trong mười loài, loài loài đều như thế. Đã là như thế, còn cầu cái gì? Tìm nó ở đâu? Tổ Sư có dạy: “Vừa có thị phi, lăng xăng nên mất tâm” chưa nắm được dây thuyền đã bị ăn gậy, thật là tội nghiệp!

Kho báu nhà mình chẳng chịu mở lại đi vạch tranh kiếm cỏ… Thảy đều do một niệm vô minh, cuồng tâm chẳng dứt cho nến mới ôm đầu đi tìm đầu, đứng nhìn nước mà kêu khát…

Chư Đại đức, vì sao lại cực nhọc đến đây? Các ông đã chẳng tiếc tiền mua hài cỏ thì tôi cũng chẳng ngại buông lời dữ dằn. (Ra uy hét một tiếng). Ông già Thích Ca đến đấy! Tham đi!

Chư Trưởng lão các nơi cũng có pháp ngữ khai thị. Một vị đệ tử của Sư tên là Khất Sĩ (Tức sư Liễu Nghĩa, người Quí Châu, còn gọi là Kiêm Đông Mật Thừa, chủ bút tờ báo Phật tại chùa Nam Hoa. Phật lịch 2975, nữ sĩ Chiêm Ninh đến Hoa, chiêm lễ Lão hoà thượng, khi cử hành thiền thất viên mãn, có chụp ảnh lưu niệm. Ngồi bên tả Sư là Khất Sĩ, ngồi bên phải là Chiêm Ninh), Khất Sĩ đã từng cùng Chiêm Ninh đối đáp như sau:

– Đại sĩ vất vả gian nan vượt trùng dương xa xôi đến đây làm gì?

Chiêm:

– Để học Phật pháp!

Khất:

– Học Phật thì phải liễu sinh thoát tử, chuyện sinh tử của Đại sĩ, rốt cuộc như thế nào?

Chiêm:

– Vốn không sinh tử, đâu cần liễu thoát!

Khất:

– Đã không sinh tử thì đâu cần phải học Phật?

Chiêm:

– Xưa nay không Phật, người học là Phật!

Khất:

– Phật có đủ 32 tướng tốt, nhấn ngón chân xuống đất, hải ấn phát quang, Đại sĩ có thể làm như vậy không?

Chiêm:

– Có thể và không thể đều là hý luận.

– Lời đáp của Bà mỗi mỗi đều đúng lý và rất tuyệt. Cho dù là vậy, nhưng nếu chỉ nói ăn, thì bụng không no, hãy thốt một câu rốt ráo đi.

– Rốt ráo không có câu nào, nói cũng vốn không, tính giác nếu không suy lường, không kéo lôi rối rắm, chính là mẹ vạn vật.

– Vấn đề này lời đã rõ ràng, câu câu đều hợp ý Tổ, chỉ một chữ Tri là cửa ngỏ các họa. Đại sĩ đã từ Giải mà vào, xin hỏi: “Lìa ngôn dứt cú, thế nào là bản lai diện mục?”.

Chiêm:

– Kinh Kim Cang nói: “A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, tức chẳng phải A nậu đa la tam miệu tam bồ đề”.

– Hình như là vậy. Thế nhưng mệnh căn chẳng dứt tất thuộc về tri kiến, hy vọng Đại sĩ phát tỉnh.

Chiêm:

– Tôi ít có dịp xem Kinh, trước từng nhập thất bốn năm, nhưng sau khi ra thất hễ tôi nói chuyện thì người ta bảo tôi toàn là nói Phật pháp. Tôi bảo “cái này” chẳng phải từ trong Kinh mà được, hình như cũng không thuộc về tri kiến.

Khất:

– Chẳng do Kinh luận, nhờ vào tĩnh tọa mà phát triển túc huệ, túc huệ cũng là tri kiến.

Chiêm hỏi:

– Phật pháp trọng thực chứng, chẳng ở nơi tri kiến, rôt cuộc là sao?

Khất nói:

– Chẳng câu nệ kinh luận, chẳng chấp tánh tướng, nơi nơi là đạo, chỗ chỗ là chân lý, miễn cưỡng gọi “cái này” cũng là quyền đặt.

Sau đó nữ sĩ theo ngài Hư Vân đến Vân Môn lễ Tổ, ở lại nửa tháng mới đi. Bà bảo rằng về nước Mỹ sẽ chấn hưng Phật giáo. Đây là vị nữ sĩ Tây phương đầu tiên đã nghiên cứu rất sâu về Phật pháp Đông phương. Tuy Bà có tu chứng nhưng không rành ngôn ngữ Trung Hoa, may là lúc đến Hương Cảng, mọi người đã đề cử cư sĩ Nhan Thế Lương (Nhẫn Tiệm) đồng đến Huệ Viên rồi theo ngài Hư Vân sang Nam Hoa. Trong thời gian mở thiền thất, mỗi ngày có khai thị cùng vấn đáp gì đều có Nhan cư sĩ phiên dịch. Các bậc thức giả bảo rằng cư sĩ đã dịch không sai một từ, không thiếu một nghĩa. Nữ sĩ đã gặp may, vì ngài Hư Vân nói pháp tinh thâm, ông Nhan dịch hết diệu chỉ, khiến cho Chiêm Ninh tuy là người Tây phương nhưng vẫn có thể lãnh hội thông suốt, đây cũng là phúc duyên thù thắng vậy.

07

DÂN QUỐC 38 (1949) KỶ SỬU – 110 TUỔI

Sau Giới đàn mùa xuân, tôi về Vân Môn để sửa sang lại các Thánh tượng trong chùa. Tính tất cả tượng lớn nhỏ có hơn tám mươi pho. Phết áo vàng và sơn Bảo tọa cho tượng phải hơn một năm mới xong. Đến nay, Điện vũ, Tăng đường, Liêu phòng, mười phần đã hoàn thành được chín.

Do cư sĩ Phương Dưỡng Thu ở Hương Cảng mời tôi đến khai quang Phật Đường và giảng Kinh tại Tịnh Xá Bát Nhã, tôi ở lại Hương Cảng một tháng rồi mới về núi, dặn sầm Học Lữ lo biên chép Vân Môn Sơn Chí.

Ghi rõ thêm về việc:

TRÙNG HƯNG VÂN MÔN

Sư đến Vân Môn cùng với Tỳ kheo Minh Không đảm đương công việc, bất kỳ sự việc lớn nhỏ nào cũng đích thân kiểm, dốc hết lòng lo. ngày đêm gian nan ra sức. Lúc này, gặp quân kháng chiến nổi dậy, giặc Nhật xâm lăng, binh lửa lan tràn khắp chốn, tài lực bị giới hạn, vật chất thiếu thôn, nhân sự rối ren, việc kiến thiết gian nan gắp mười gấp trăm lần ở Nam Hoa. Nhưng Sư vẫn điềm tĩnh không nao núng, cứ tiến hành những gì đã hoạch định. Ngày qua tháng lại, cuối cùng rồi cũng xong. Tóm tắt các công việc của Sư như sau:

Sửa lại hướng núi:

Lúc Tổ còn sinh tiền, hướng núi của ngôi chùa này ra sao thì chưa rõ. nhưng chùa cũ tọa Tây Bắc, hướng Đông Nam, núi càn hướng Tôn, Tam môn của Đại điện nằm đối diện với đỉnh Lôi Công, xét về phong thủy, các mặt… thảy đều bất lợi. Bên tả lưng núi nghiêng về ngọn Thọ Sơn, xung sát với dòng Sa Khê. Còn mặt tiền bên hữu bị núi Bạch hổ lấn át, mặt tiền bên tả chẳng hiện đỉnh Thanh Long nên không xứng hợp với cục diện chính đường.

Mấy trăm năm trở lại đây, chùa ngày càng suy vi. Tuy bảo: “Người tính chẳng được, song việc xây dựng, an hướng núi cho đạt cách rất có lợi trong việc an chúng”. Sư khảo sát hình thế núi sông; nghiền ngẫm lợi hại của phong thủy, rồi cho sửa hướng núi chánh tọa Tây Bắc hướng Đông Nam, thủ ở thế Tân, quay về hướng At, sắp Tam Môn của Đại Điện đối diện với ngọn Quán Âm. Sửa như thế được bốn điều lợi:

  1. Toàn chùa dựa vào hướng núi chánh, không tựa nghiêng lệch, tránh được lưng bên tả núi nghiêng vào khí xung sát.
  2. Sửa ngọn Thanh Long cao hơn núi Bạch Hổ, loại bỏ sự lấn át phía bên hữu mặt tiền.
  3. Hướng chánh đối với ngọn Quan Âm, sắp xếp như vậy núi đẹp hơn, biến các đỉnh kỳ sơn lớn nhỏ nằm la liệt lân cận, thành thế quí nhân chầu quanh, hộ vệ.
  4. An trí toàn cảnh Già-lam thanh tịnh xứng hợp với phong thuỷ thiên nhiên, mặt sau ở thế tựa vững vàng, mặt trước khai triển rộng, thành thế “tả ủng hữu hộ”, loại hết hung sát, khiến các hướng đều tốt đẹp.

Từ lúc Sư trùng hưng đến nay, mặc dù thời cuộc hỗn loạn, địa phương chưa được an ninh, nhưng tăng chúng Vân Môn vẫn ở an hành đạo, đổi hiềm thành yên. Tăng, tục mười phương khắp nơi tìm đến, sống an hòa cùng lo việc hoằng pháp. Tông phong Tổ nhờ đây được chấn hưng, khí thế như mặt trời lên. Những việc này là do đạo đức của Sư chiêu cảm, song việc tu bổ chùa, chỉnh hình thế theo cung cách tốt cũng rất can hệ vậy.

Trang nghiêm pháp tướng:

Sư cho sơn phết, đắp lại các tượng Phật, Bồ tát, Chư Thiên, Già lam… tính các tượng lớn nhỏ tổng cộng hơn tám mươi pho, được phết vàng rực rỡ, đặt tại các ngôi điện đường vô cùng trang nghiêm. Thiện nam tín nữ gần xa đua nhau đến chùa chiêm lễ, hoan hỷ tán thán cùng gieo thiện căn. Mấy năm gần đây, trước sau thỉnh được các bộ Kinh, Luật, Luận đều nhờ các vị như: Tỳ kheo Diệu Vân cúng dường bộ Nhật Bản Đại Chính Tạng Kinh’, Trần Khoan Bồi, Hà Khoan Trí cúng dường các bộ Tích Sa Tạng, Tục Tạng Kinh; Diệp Hà Am cúng dường bộ Đại Tạng Di Trân v.v… tất cả đều cất trong Tàng Kinh Các, để mọi người tha hồ nghiên cứu

Ngoài ra còn có đủ pháp khí Phật cụ linh tinh khác, tất cả đều được trưng bày tề chỉnh trang nghiêm.

Cứu tế nông thôn

Cổ đức nói: ‘Núi có ngọc thì cỏ cây xanh tốt, suối có rồng thì nước chẳng cạn khô, chỗ ở có Tam Bảo thì thiện căn tăng trưởng”.

Sư trùng hưng Vân Môn, thiệu long Phật tổ, hoằng pháp lợi sinh, âm thầm giúp quốc gia cai trị và cảm hóa dân, lợi ích khắp cõi dương lẫn âm, từ quá khứ đến hiện tại. Không thể dùng lời mà nói hết được. Việc cứu tế nông thôn là một bằng chứng rõ ràng xác thực vào thời ấy.

Lúc trùng tu đạo tràng, công trình xây cất hoành tráng này thực hiện mất tám năm ròng, ngoại trừ các vị có kỹ thuật chuyên môn về, số thợ phổ thông có khoảng từ một đến hai trăm, phần đông là những người thất nghiệp trong làng, nhờ công trình xây cất này mà có công ăn việc làm, kiếm được tiền. Trước đây do cảnh nhà đông nhân khẩu, muốn sinh tồn, họ phải vào núi sâu kiếm củi, xẻ đá… sống lây lất qua ngày. Bây giờ dân xóm núi được tuyển làm thợ phụ xây cất Vân Môn, kinh tế không lo thiếu thốn và đời sống khởi sắc lên nhiều. Các thôn làng phụ cận cũng hưởng ké theo, vì những thôn làng này thường gặp nhiều ách nạn, may nhờ có Hoà thượng ra tay cứu giúp, có thể kể sơ lược vài việc như sau:

  1. Ngày nọ, nhằm tháng chạp năm Dân Quốc 33 (1944), Quan, binh Vận Thu Bộ Tư Lệnh Cao Cấp, đi trên Quốc Lộ 16 đến Nhũ Nguyên thì bị bọn phỉ cướp, giết. Quân Chính phủ nổi lôi đình, hạ lệnh truy quét hết sào huyệt bọn phỉ, cho bao vây lục soát mấy chục thôn lân cận Vân Môn, bắt giam mấy chục người, tài sản súc vật thảy đều bị tịch thu. Đa số dân làng đều chạy vào chùa trốn, nhờ Sư ba lần đi lên huyện thương lượng, khuyên giải chính quyền, họ mới khoan hồng, chịu thả tù nhân, trả lại súc vật. Nhờ vậy dân làng: nam nữ già trẻ đều có thể về nhà an cư, không còn phải lo sợ nữa.
  2. Vào tháng hai năm Dân Quốc 34 (1945), giặc Nhật xâm lăng Nhũ Nguyên, kỵ binh tràn đến, bắt dân làm sưu, cướp lương thực súc vật, hãm hiếp phụ nữ, hủy nhục tàn nhẫn. Nhưng khi thủ lĩnh quân địch vào chùa gặp Sư, bị đức độ Ngài thu phục khiến họ sinh tâm cung kính lễ bái. Nhân đó Sư khuyên họ hãy nghiêm dạy thuộc hạ không nên quấy nhiễu lương dân, nhắc nhở họ ra yết thị, dán thông báo khắp các thôn làng… Nhờ vậy mà an ninh được vãn hồi, dân chúng không còn bị quấy nhiễu.
  3. Ngoài ra, mỗi khi dân chúng gặp thiên tai hay nhân họa, bất kỳ ai gặp phải ách nạn gì, đều được Sư thương xót cứu, giúp cho an toàn, việc này khó mà kể cho hết. còn những việc bố thí thuốc men, chữa lành cho người bệnh là chuyện rất thường.
  4. Mùa thu năm Canh dần, Sư thấy dân chúng quá khổ, nên nguyện đem thân mình gánh thay, do vậy mà Sư bị bệnh nặng suốt hai tháng ròng.

Ngày 16 tháng 8, các bô lão, thân sĩ… nghe tin sư bệnh, họ đại diện cho các thôn làng phụ cận Vân Môn, đồng đến chùa vấn an Sư, nghẹn ngào thưa:

– Người dân địa phương chúng con, từ lớn tới nhỏ… nghe tin Hòa thượng lâm bệnh, thảy đều chấn động. Chúng con ai cũng cầu mong bệnh của Hòa thượng sớm được lành. Bởi vì từ lúc Hòa thượng đến Vân Môn tới nay, địa phương này được hưởng nhờ ơn đức bao la của Ngài, dân làng có gặp nạn dữ cũng hóa lành, đời sống được an ổn, từ người đến vật đều không bị thiên tai ôn dịch… hoàn toàn khác hẳn với cuộc sống thống khổ trước đây…

Lược kể nhiêu đây cũng đủ để hiểu đức hạnh cao dày của Sư đã cảm hóa, gây xúc động lòng người như thế nào rồi.

Tăng gia sản xuất

Sư nghiên cứu Bách Trượng Thanh Quy, xem xét tình hình thời cuộc lúc ấy và hiểu sâu sắc rằng, muốn Phật giáo sau này không bị đào thải thì kinh tế chùa phải nhờ vào tự túc, tự lao động sản xuất. Có thế mới mong tồn sinh. Vì theo đà biến đổi của chính trị thì cần phải cải cách đường lối kinh tế, chùa mới có thể phát triển và đứng vững trong xã hội. Kinh tế chùa ngày xưa dựa vào ruộng cho thuê, và tiền hóa duyên. Song việc đám sám… giờ đã không hợp thời, chỉ có lao động sản xuất mới thích ứng và chấp nhận được.

Thế là, tại Vân Môn, Sư thành lập Nông Trường Đại Giác, mọi người ở trong chùa đều phải khẩn hoang trồng trọt. Nông cụ, hạt giống đều do chùa cung cấp. Đến mùa thu hoạch, chia hưởng đồng đều. Sư khởi xướng việc xây dựng Xưởng Dệt ở chùa Đại Giám đất Thiều Quang cho tứ chúng

Phật tử, để họ ngoài việc tu hành học đạo còn có chỗ để công tác. Các nghành nghề nông, công… theo đây cũng được tăng gia sản xuất, khai mở nguồn kinh tế giúp chùa kịp thích nghi với thời cuộc, hoàn cảnh mới, xứng hợp với bối cảnh chính trị xã hội sau này.

Phụ lục:

CẢM ỨNG CƯA CÂY CHƯƠNG

Vào tháng 6 năm Dân Quốc 33 (1944), Sư cho đắp nền khởi sự xây Điện Thiên Vương. Lúc ấy, bên hữu của Trai Đường (hiện nay), có một cây Chương cổ thụ, rễ đâm chằng chịt ăn sâu vào lòng đất. Chu vi ước hơn năm thước rưỡi (16m Tàu), cây cao chót vót, cành lá um tùm che rợp đến nửa mẫu đất. Thân cây rất to và nặng… lại nghiêng về phía Điện Tổ. Nếu chừa cây lại thì bất tiện cho các công trình xây cất mới, mà đốn nó thì e sẽ gây tổn hại không nhỏ. Bởi phía Tây Bắc cây là Điện Tổ cũ, phía Đông Bắc là Tăng Đường, phía Tây Nam là Chánh Điện cũ cùng cổng Tam Quan. Chỉ có hướng Đông Nam là không bị trở ngại. Nhưng toàn bộ trọng lực và hướng nghiêng của cây lại không nghiêng vào chỗ trống mà lại ngả về phía tai hại ngược lại.

Cây to đến nỗi muốn chặt nó phải mất nửa tháng ròng. Mà càng đốn, nó càng nghiêng tợn về hướng Tây Bắc, (là nơi có Tổ Điện, Đại Điện)… cứ đà này tình hình sẽ rất nguy. Mọi người đều lo lắng, xôn xao bàn cách cứu vãn. Người thì đề nghị dùng dây cáp kéo nó về phía Đông Nam, người thì hiến kế nên đóng cọc chống ở phía Tây Bắc, kẻ lại bảo phải tháo dở cái nhà cũ trước đã… Sư nghe bàn tán râm ran, chỉ mĩm cười bảo:

– Cứ chặt tiếp đi! Đừng lo lắng thái quá!..

Mỗi ngày, trước khi mặt trời lặn, Sư tự tay cầm búa chặt vài rìu. Lâu ngày, cây càng nghiêng dữ về hướng Tây Bắc, Tổ điện, Phật Điện càng bị đe dọa trầm trọng.

Một hôm, sau giờ ngọ trai, như thường lệ Sư dẫn hết tăng tục lên Điện Tổ niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm. Mới nhiễu Phật xong, Sư ngồi kiết già trên chiếc ghế dài đặt ở mặt tiền hướng Đông Tây, thì trời bỗng nổi trận cuồng phong, âm vang chấn động làm rung chuyển cả mái ngói. Đại chúng nghĩ thể nào cây đại thụ cũng đổ, họ ngay ngáy lo là sẽ bị nó đè. Nhưng liếc nhìn qua thấy Sư thần sắc chẳng chút dao động, cứ điềm nhiên tĩnh tọa như không có chuyện gì, họ chỉ còn biết phó thác niềm tin vào Sư, thầm cầu mong chuyện sẽ không đến nỗi nào. Phút chốc, bỗng nghe tiếng ầm ầm nổi lên, đất động nhà xiêu, cát bụi bay mù mịt, rồi không còn nhìn rõ gì nữa. Lát sau, mọi người mới biết là cây đại thọ đã ngã rồi, nhưng Tổ Điện vẫn chưa bị đè sập, bấy giờ họ mới hoàn hồn, xúm nhau đi ra ngoài xem. Thật lạ, cây đại thọ đã ngã về hướng đất trống Đông Nam, hoàn toàn trái ngược với hướng nghiêng thường ngày của nó và không gây chút tổn hại gì. Đại chúng xúc động bàn tán xôn xao, ai cũng cho là Hòa thượng có uy đức thần lực không thể nghĩ lường. Lúc bấy giờ Biên giả cùng cư sĩ Hoàng Nhật Quang cũng có mặt tại hiện trường, được tận mắt chứng kiến sự thật này.

8 giờ sáng, ngày 27 tháng 6 năm Dân Quốc 34 (1945), Tăng chúng cả chùa đều mới niệm Phật ở nhà Tổ xong, đang lục tục trở về liêu, bỗng nghe sấm chớp rền vang rồi có tiếng sét đánh, cây xà vuông làm bằng gỗ giẻ, các xà ngói trên Điện Tổ, toàn bộ đều nghiêng rã. Lư, án, bàn, ghế… đều bị nghiền nát, toàn điện biến thành một đông ngói gạch, chỉ có chân thân của Tổ Văn Yển là vẫn ngồi an nhiên như cũ. Nhờ mọi người vừa mới ra khỏi điện, nên không ai bị tổn hại.

Phụ lục:

XÂY LẠI CÁC NGÔI ĐIỆN VŨ Ở VÂN MÔN

Cuối đời Thanh tuy có trùng tu chùa ở Vân Môn nhưng kích cở kiến trúc rất nhỏ, các ngôi Điện vũ không nhiều. Đến thời Dân Quốc, do trải qua mấy mươi năm, vì lâu ngày nên cảnh xưa đà mục nát: nhà đổ tường hư, tất cả chìm trong hoang tàn, cỏ dại dây leo phủ kín. Lũ chồn hoang và thú rừng chọn nơi này làm hang ổ, cảnh tiêu sơ khó mà diễn tả hết. Hòa thượng Hư Vân có đại lực đại nguyện, dốc hết sức bình sinh ra trùng hưng, kiến tạo lại Tổ đình và chấn chỉnh Tông phong.

Tháng 12, năm Dân Quốc 32 (1943), Ngài từ Tào Khê chống gậy xuống Vân Môn, quyết tâm trùng hưng ngôi Đại Giác Thiền Tự, khôi phục tông Vân Môn. Vì vậy, ngày đêm lao khổ miệt mài, Ngài soạn thảo kế hoạch, tiến hành thực hiện những công trình hùng vĩ, từ việc lớn đến việc nhỏ Ngài đều đích thân làm. Ngài nhìn xa trông rộng, khảo sát kỹ cuộc đất, lấy đây làm căn bản để sắp xếp cho hợp với hình thể núi sông, theo đúng lý âm dương phong thủy. Ngài cho sửa hướng núi, đắp lại nền chùa, phát sạch bụi rậm hoang vu, trồng thêm cây rừng, cất thêm các ngôi Điện vũ hoành tráng… trải qua chín năm mới xây xong Điện, Đường, Lầu các, Liêu phòng, Đại sảnh, Nhà kho, Tháp…Tổng cộng hơn 180 ngôi. Tính luôn Ao Phóng Sinh, Nhà Giã Gạo, Tháp Hải Hội… tất cả chiếm một diện tích khoảng hơn hai mươi mẫu. Lầu cao, gác đẹp, nhà rộng nhiều tầng, bảo tướng trang nghiêm, khu Già lam thanh tịnh thảy đều do cao đức của Ngài chuyển hóa.

Ngài tùy cơ thuyết pháp, mở gút tháo chốt, gỡ hết rối rắm, chỉ thẳng bản tâm cho người. Thế nên hàng sĩ thứ đến chiêm lễ, mười phương đều tụ hội. Tuy nói Thánh địa đạo tràng này được xếp vào bậc nhì (so với Tào Khê), nhưng tông phong hưng thịnh và lực cảm hóa vẫn trùm hết thiên hạ.

Về kiến trúc, kết cấu, bài trí của công trình đại trùng hưng này thì ngôi Đại Hùng Bảo Điện được xem như là trung tâm, chủ tọa Tây Bắc hướng Đông Nam, núi Tân hướng Ât. Trước và sau Đại Điện là hai hàng Phạm Vũ, bên tả và hữu của Phạm Vũ, mỗi bên đều có hai đường, Sự phân bô’ bài trí này, xin thuật rõ như sau:

Đại Hùng Bảo Điện là trung tâm điểm của chùa, cao chừng 5 trượng1, rộng 36 trượng vuông, phía trước có Nguyệt Đài, dưới Nguyệt Đài có thềm Đan Trì. Phía sau có giếng Đại Thiên, hai bên tả hữu có giếng Trường Thiên, hành lang chạy dài bốn phía, ăn thông với những con đường ở hai bên tả hữu của Phạm Vũ.

Bên trong Chánh Điện, chính giữa thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Dược Sư, Phật Di Đà. Phía sau thờ Tây Phương Tam Thánh cùng hai vị Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền. Hai gian tả hữu thờ 18 vi La hán, chư Thiên và 24 vị Thánh.

Phía trước tòa Phạm Vũ, phân làm ba viện: chính giữa và hai bên tả hữu.

-Viện giữa phía đầu Sơn Môn, gồm Điện Thiên Vương, Điện Vi Đà, thờ Bồ Tát Di Lặc ở giữa, hai bên tả hữu thờ 4 vị Đại Thiên Vương. Phía sau thờ Bồ tát Vi Đà, tướng hảo trang nghiêm, sầm Học Lữ ở Thuận Đức (Quảng Đông) để liễn nơi Sơn Môn:

Vân phú đại thiên giới

Môn truyền bất nhị tông

(Mây che cõi đại thiên

Cửa truyền tông bất nhị)

-Dãy bên tả có tên chung là Húc Nhật Lâu, là ngôi lầu 2 tầng, có Đại sảnh, Tiểu sảnh đường, đình, liêu cùng hiên phòng… tổng cộng 18 gian. Phía trong tựa vào Điện Thiên Vương, bên tả phía dưới có gian Báo Ần Đường, dành để thờ phụng thờ Tôn thân phụ mẫu các Sư trưởng của bổn tự.

-Tòa bên hữu gọi là Minh Nguyệt Lâu. cũng xây hai tầng. Tính Đại sảnh, Tiểu sảnh đường, đình, liêu cùng hiên phòng… tổng cộng 16 gian, phía trong tựa vào Điện Thiên Vương, dưới đất có một gian là Tây Quy Đường, dùng để thờ chư Tổ khai sơn chùa và chư vị trùng hưng kế tiếp, các vị Trụ trì, chư Tổ, quý Đại Lão hòa thượng… cùng bài vị giác linh các vị khai sơn trùng hưng chùa, những bậc quá cố từ trước tới nay.

Ở trong hai tòa Lầu Húc Nhật và Minh Nguyệt, sáng sớm hay hoàng hôn gì đều thấy núi ánh sắc mây, bốn mùa biến hóa, có thể lặng ngắm vầng trăng tỏa sáng, chiêm ngưỡng dãy ngân hà rạng rỡ lấp lánh trong đêm thâu và thầm cảm nhận một cõi pháp giới chơn thật, thường hằng đang hiển hiện.

Phía sau Phạm Vũ cũng phân làm ba:

– Dãy giữa là tòa lầu hai tầng, gồm Pháp Đường, Giới Đàn, Tàng Kinh Các. Tầng trệt là ngôi kiến trúc rộng lớn có Pháp Đường và Giới Đường. Chính giữa là tòa Sư tử, trên thờ Đức Thích Ca Ngọc Phật. Tầng trên là Tàng Kinh Các, phân ra 6 gian, trên có ba chữ Vũ Hoa Đài.

– Dãy bên tả là Tổ Đường, thờ chân thân Thiền sư Văn Yển, vị Tồ đầu tiên của tông Vân Môn cùng bia của chư Tổ nối tiếp trải qua các đời của bổn tông. Đây là toà lầu hai tầng, trên dưới tổng cộng 20 gian.

– Dãy bên hữu là Phương Trượng, cũng là láu hai tầng, tính chung các sảnh đường, liêu, hiên, phòng trên lẫn dưới… tất cả là 20 gian. Bên trong thờ tượng của Bồ tát Quán Thế Ẩm có đôi liễn:

– Thùy vân hữu đạo hữu thiền, nhậm nhữ vũ bảo di không tổng thi quỷ gia hoạt kế.

(Ai bảo: có đạo có thiền, mặc người mưa báu đầy trời, đều là kế sống nhà quỷ).

– Giá lý vô bổng vô hát, bất phòng niêm thảo tác dược tọa linh thiên hạ thái bình.

(Trong đây không gậy không hét, chẳng ngại trao cỏ làm thuốc, ngồi giúp thiền hạ thái bình).

Hòa thượng Hư Vân tự tay viết đôi liễn:

– Lưỡng thủ tương sơn hà đại địa, niết biến tha viên, kháp toái liễu biến tát hư không, hỗn vô sắc tướng.

(Hai tay nắm sơn hà đại địa, bóp dẹp vo tròn, nghiền nát xong tung khắp hư không, vận (chuyển) vô sắc tướng.

– Nhất bổng bá thiên cổ nghiệp ma, đả tử cứu hoạt hoán tỉnh lai phóng nhập vi trần, cộng tác đạo tràng.

(Một gậy đem nghiệp ma thiên cổ, đánh cếêt cứu sống, gọi tỉnh lại, thả vào vi trần, cùng lập đạo tràng.)

Bên tả Nhât Lộ Phạm Vũ chia làm ba dãy lớn:

Dãy thứ nhất là Khách Đường, giữa là Sảnh Đường. Hai bên là bốn gian Liêu, Phòng. Khách Đường ở tầng một, giữa là Sảnh Đường hai bên bốn gian Liêu, Phòng. Tầng thứ hai là Lầu Chuông (Chung Lâu), có treo một đại hồng chung lớn, khi đánh âm thanh vang xa mười mấy dặm. Có thể cảnh tỉnh người sâu sắc.

Dãy thứ hai là Điện Già Lam, giữa thờ Trưởng giả Cấp Cô Độc, hai bên có bốn gian Liêu, Phòng. Trên lầu Điện Già Lam có Đại, Tiểu Sảnh, Liêu, tổng cộng 5 gian.

Dãy thứ ba là Vân Thủy Đường, trên lầu, dưới lầu, Sảnh Đường, Liêu Phòng hơn 10 gian.

Bên tả Nhị Lộ Phạm Vũ cũng chia làm ba dãy:

Một là Bếp Hương Tích, bên trong đắp 5 lò to lẫn nhỏ, có một cái hồ lớn bằng đá dùng để chứa nước. Phàm nước ăn uống hay tiêu xài, đều dùng ống sắt dẫn vào hồ này. Ngôi kiến trúc này có 5 gian, dành cho các vị Điển Tòa, Phạn Đầu v.v… ở. Phía trên có khám thờ Bồ tát giám Trai.

Hai là Trai Đường, trên cửa có biên đôi liễn trích trong sách cũ của Tô Đông Pha:

“Chúc khứ phạn lai, mạc bả quang âm giá diện mục.

(Cháo đi cơm lại, chớ để tháng ngày che diện mục)

Chung minh bản hưởng thường tương sinh tử quải tâm đầu?”

(Chuông khua bảng dội, thường đem sinh tử mắc nơi tâm).

Ba là Khố Phòng (nhà kho), trên lầu dưới lầu cũng giống như bên Trai Đường, có đại sảnh, tiểu sảnh, phòng ốc… Tổng cộng hơn 10 gian.

Bên hữu Nhất Lộ Phạm Vũ, cũng có ba dãy kiến trúc:

Một là Công Đức Đường: Thờ bài vị các hộ pháp đàn na của bổn tự đã vãng sanh cùng Lộc Vị Trường Sanh2 gồm một dãy liền nhau nơi tầng lầu thứ nhất, tính Sảnh Đường, Liêu Phòng tổng cộng 10 gian, tạm dùng làm Thượng Khách Đường. Tầng thứ hai là Cổ Lâu (Lầu trống), có đặt một cái trống lớn, nằm đối với Chung Lâu (lầu chuông).

Hai là Điện Tổ Sư: Thờ Sơ Tổ Đạt Ma, Thiền Sư Bách Trượng, Luật Sư Đạo Tuyên, tầng lầu trên, tính Đại Sảnh, Tiểu Sảnh, Phòng Ôc…. tổng cộng 10 gian.

Ba là Thiền Đường: trên lầu dưới đất Đại Sảnh, Tiểu Sảnh 12 gian, Phiên Ngung Thang Anh đề đôi liễn nơi Thiền Đường:

“Chiếu cố thoại đầu, bất quản tha Trường Khánh (1) quyển liêm, Hương Nghiêm kích trúc.

(Chiếu cố thoại đầu, chẳng quản chi Trường Khánh cuốn rèm, Hương Nghiêm kích trúc).

Viễn ly vọng tưởng, hứa hội đắc Hòa Sơn đả cổ, Tuyết Phong côn cầu.”

(Xa lìa vọng tưởng, mới hiểu được Hòa Sơn đánh trống, Tuyết Phong đá cầu).

Bên hữu đầu đường Nhất Lộ thông tới cửa Phương Trượng có treo đôi liễn cổ:

“Nhập thử môn, bất hứa nễ thất điên bát đảo”. (Vào cửa này, không cho ông thât điên bát đảo).

“Đáo giá lý, mạc quản tha ngũ uẩn lục thông”.

(Đến trong đây, bất kể anh ngũ uẩn, lục thông).

Bên hữu Nhị Lộ Phạm Vũ, có ba dãy:

-Công Nhân Liêu: gồm ba gian, mái bằng.

-Như ý Liêu: cũng ba gian, nóc bằng.

-Thanh Sở: nóc bằng, ba gian.

Nhà Xay Gạo (Niễn Mễ Phòng) có hai tầng: trên, dưới. Các gian lớn nhỏ có năm ngôi, dùng sức nước để xay gạo. Ngoài những lúc xay gạo cho chùa, cũng cho dân chúng quanh vùng đến xay nhờ.

Ngoài Sơn Môn có đào ao phóng sinh, rộng một mẫu, sâu một trượng, nước đầy cá lội, sóng gợn lăn tăn, ao vàng liễu biếc, điện quế tỏa hương. Du khách đến đây, như bước vào cảnh giới thanh lương.

Tháp Hải Hội xây cách chùa khoảng một cây số nằm về phía Tây, trên dưới hai tầng, khoảng chừng mười gian, có tường thấp bao quanh, trồng đủ kỳ hoa dị thảo.

Di cốt của thất chúng được đặt vào đây, đêm ngày nghe tiếng niệm Phật, hai cõi U-Minh đều được lợi.

(Sư tự thuật Niên Phổ đến mùa đông năm Kỷ Sửu thì ngừng lại. Năm này, Sư đã được 110 tuổi. Công trình ở Vân Môn coi như đã xong mà chưa xong, Lúc bấy giờ, Tăng chúng tụ hội cả nghìn vị, cày ruộng mà ăn, đều nương vào Sư, không chịu đi nơi khác).

NĂM CANH DẦN (1950) 111 TUỔI

Mùa xuân năm này, Sư vẫn về Nam Hoa truyền giới, mở thiền thất trường kỳ nơi thiền đường. Trong số tham dự có người khai ngộ. Xong, Sư bèn trở về Vân Môn tính việc chỉnh lý niên lịch trong bản thảo, giao phó việc biên tập; nhưng ghi lại sự việc hơn một trăm mấy chục năm cho chính xác trong một lúc không phải là chuyện dễ.

Ghi thêm:

Trong giới đàn kỳ này, cư sĩ Vương Khuynh Tây thọ giới cụ túc, pháp danh là Khoan Mộ. Khoảng 20 năm trước, ông đã từng theo Sư cất am tranh ở Cổ Sơn có chỗ tĩnh sáng. Sau khi xuất gia, ông dốc lòng tu tịnh nghiệp.

Phụ ghi:

TÔI HAI LẦN THÂN CẬN HÒA THƯỢNG

Pháp sư Long Tuyền

Hòa thượng Hư Vân danh vang khắp thiên hạ.

Lần đầu tôi được thân cận Ngài là năm Dân Quốc 20, vào kỳ truyền giới mùa xuân nơi chùa Dũng Tuyền, Cổ Sơn Phúc Châu. Ngài là Phương Trượng. Còn tôi lúc đó đang ngụ tại chùa Thiên Đồng, Lão pháp sư ứng Từ gởi thư sang, bảo tôi nên đến chỗ Hòa thượng Hư Vân học hỏi, thân cận…

Được thư, lòng tôi hoan hỉ lạ thường. Tôi lập tức rời chùa Thiên Đồng, đến chỗ pháp sư ứng Từ nơi chùa Sùng Pháp (Thượng Hải). Ngày mùng 5 tôi cùng với ba người bạn đồng học theo Lão pháp sư ứng Từ đáp thuyền đi Phúc Kiến. Thuyền nhỏ hẹp, nửa đêm gió nổi sóng to. Hôm sau chúng tôi đến Mã Trì và nghỉ đêm tại chùa Trấn Hải. Sáng sớm ngồi kiệu lên núi, mới dừng lại ở Y Đình thì đã nghe trong chùa đốt pháo mừng đón. Đến cổng sơn môn, chùa cũng đốt pháo ba lần và chuông trống đồng loạt gióng lên nghênh đón. Hoà thượng Hư Vân bước ra (trước hai hàng đại chúng đang đứng dàn sẵn ngoài Điện Thiên Vương) nhiệt liệt đón chào Lão pháp sư ứng Từ, rước Ngài vào Phương Trượng nghỉ ngơi. Chư sư Thủ lĩnh đảnh lễ chúc mừng, còn chúng tôi được sư Tri khách Minh Quan lo việc chiêu đãi sắp xếp chỗ nghỉ. Hôm sau, khi giảng Kinh Phạm Võng, nghi thức Đại tòa được cử hành. Chùa nổi bảng tập hợp chúng tại Phương Trượng. Hai vị Đại lão nhân đều đắp Đại Hồng Tổ Y quỳ thắp hương trước Pháp tọa. Đầu tiên ngài Hư Vân niêm hương cúng dường Lão pháp sư. Chúc từ xong Ngài cắm vào lò. Tiếp đến Lão pháp sư niêm hương hồi kính ngài Hư Vân, chúc từ xong thì cũng cắm hương vào lò. Làm như thế ba lần. Rồi sư Duy na hô: “Mạt hậu tiên hành” (đằng cuối đi trước), sau đó lên Đại điện xướng tán hương rồi cầm phất tử ra Pháp Đường phía sau, Hoà thượng Hư Vân trịnh trọng hộ tống Lão pháp sư an vị. Lão pháp sư lại hồi tiễn Hoà thượng Hư Vân rời Pháp Đường, sau đó xướng Tán Hương, thăng tòa giảng kinh.

Trong giới kỳ, ngài Hư Vân thuyết giới, Pháp sư ứng Từ làm Yết-ma, Thủ tọa Giả Minh làm Giáo thọ, pháp sư Tông Cảnh làm Đại sư Khai đường.

Tiết thanh minh, có lễ Thái Sơn Giới, (tức Lễ Đạp Sơn) đây là quy củ thường trụ, mỗi năm một lần. Hòa thượng Hư Vân hướng dẫn đại chúng hành sự. Thắt lưng Ngài buộc một sợi dây rơm, tay cầm cái cuốc, dẫn đầu toàn thể Tăng chúng hơn ba trăm người, rầm rộ leo núi, nhưng hễ mọi người vừa leo được lên núi thì đã thấy Vân công đã ở tít trên đỉnh cao kêu: “Các vị mau tới đây”. Đại chúng nghe gọi cảm thấy xấu hổ thầm, vì mình leo núi mà bị rớt lại sau nên cố hết sức đi lên, thế nhưng dù có ráng bước đến toàn thân xuất hạn dầm dề cũng chẳng thể nào theo kịp Lão nhân. Thân thủ Ngài sao mà nhanh thoăn thắt, nhẹ nhàng đến lạ. Khiến chúng tôi càng cảm thấy mình sao mà quá nặng nề chậm chạp… mọi người còn đang nhìn sững ngài Hư Vân đi và cùng bàn tán với nhau về điều này thì Ngài đã lướt qua đến đỉnh núi thứ hai và kêu chúng tôi rồi… Cứ thế, trải qua bốn năm đỉnh núi cao, không ai có thể theo kịp Ngài. Gần ngọ, ngài Hư Vân về chùa thọ trai. Còn đại chúng, lúc về được tới chùa thì đã hơn một giờ trưa. Trong phòng Lão nhân chỉ có cái bàn nhỏ, cái giường, và giá móc trên tường, ngoài ra chẳng còn vật gì khác. Đồ cúng dường Ngài đều phân chia cho đại chúng cùng hưởng. Lúc chúng tôi thỉnh khai thị. Ngài nói:

– Lão pháp sư Ứng Từ, Tông và Thuyết đều thông, cùng tôi pháp môn bất nhị. Chúng tôi quyết định phát tâm thân cận mãi mãi, tương lai hành bồ tát đạo, hoằng pháp lợi sinh, thiệu long phật chủng..

Theo sắp xếp, Lão pháp sư Ứng Từ giảng kinh Phạm Võng quyển thượng, đến Thập Hồi Hướng thì tôi sẽ lên tòa thuyết thay. Tôi đem kinh văn ngày mai ra xem suốt cả buổi tối đến hơn 12 giờ khuya mới ngủ. Hôm sau, gần ngọ tôi đắp y trải tọa cụ hướng hai vị Lão nhân đảnh lê. Pháp sư ứng Từ dạy:

– Sau ngọ ít nằm, đoan tọa hành phép quán. Nên thắp hương cầu nguyện từ quang mười phương Tam bảo, Hộ Pháp Long Thiên gia bị cho … thì tự nhiên ung dung vô úy, như vào chốn không người.

Sau khi thăng tòa, Vân lão niệm hương, lễ phật trước. Rồi đến Lão pháp sư Ứng Từ dâng hương lễ phật. Tôi cũng không biết hai vị Lão nhân đều ở phía sau nghe giảng. Trong đời, đây là lần đầu tôi giảng Đại tòa. Giảng xong, lúc hạ toà nghỉ ngơi, Vân công khen tôi mấy câu. Còn Lão pháp sư Ứng Từ nói:

– Tổ y là Như Lai gia nghiệp, đắp vào tâm tư thương xót chúng sinh thống khổ. Nếu còn giữ chút tâm danh lợi, tương lai sẽ đoạ lạc tam đồ.

Ngày nọ, Vân công nhóm bếp nhỏ luộc rau dền Hồ Nam, đãi Pháp sư Ứng Từ. Ngài lịnh thị giả đến khố phòng mua dầu. Tiền không đủ, thị giả phải về xin hoà thượng đưa thêm hai đồng. Mới biết Ngài công tư phân minh, chế độ quy củ thập phương Tùng lâm nghiêm nhặt như thế. Chúng tôi mỗi tối vào Thiền Đường tọa hương, nghe lão hòa thượng Hư Vân khai thị, giảng Kinh Phạm Võng, giảng một ngày là xong.

Hôm sau lại thỉnh Lão pháp sư Ứng Từ giảng Đại Thừa Khởi Tín Luận ở Giảng Đường. Lúc giảng xong, chùa Thiên Đồng Ninh Ba thỉnh Ngài đến đó giảng Kinh Phạm Võng. Tôi vào Phương Trượng hướng Hư Vân lão nhân đảnh lễ từ biệt, lúc này có các vị khác như Hoà thượng Linh Tuyền chùa Đại Giác Cơ Long và chư vị thập phương cũng hướng Hòa thượng Hư vân đảnh lễ từ giã, xin theo Lão pháp sư Ứng Từ nghe pháp. Vân công nhất nhất chuẩn, hứa và dặn dò tất cả hãy tinh tấn tu học. Đây là lần đầu tôi trải qua kinh nghiệm thân cận Hoà thượng Hư Vân.

Tháng mười năm Dân Quốc 39, tôi nhận được thư pháp sư Linh Nguyên từ Hương Cảng gởi đến, báo tin:

“Mùa xuân sang năm hoà thượng Hư Vân truyền thọ Ngàn Phật Đại Giới ở Vân Môn, Ngài mời ông làm Đại Sư Khai Đường”.

Thế là tôi liền lên đường đến Vân Môn.

Trong Thiền Đường Dưỡng Tức Hương lúc gần khai tịnh, Sư Tri khách hô: – “Hưu tức tại Khách Đường”. Những người tham dự được lãnh ba cái bánh nhỏ (gọi là bánh Vân Môn). Theo truyền thuyết, vào thời tổ sư Văn Yển Vân Môn, lúc ăn bánh này người người khai ngộ. Nay ngài Hư Vân phỏng theo đó, cho phép tạm lót lòng. Do trong chùa đại chúng quá ngọ không ăn, đây chỉ là phương tiện trong thất kỳ. Chúng tôi sau khi dùng bánh xong, vào Điện Tọa Hương nghe khai thị.

Sáng hôm sau tôi đắp y trải tọa cụ, đem lễ vật, thư chúc thọ của lão sư Ứng Từ ở Thượng Hải và các đệ tử Gia Nghĩa gởi Hoà thượng, nhất tề dâng lên.

Đảnh lễ Ngài xong, Vân công nói:

Đường xa diệu viễn, các ông đến đây thật không dễ, hi vọng ở đây càng thêm phát tâm. Lễ xong thì về liêu nghỉ ngơi.

Tôi vào Điện Tọa Hương, lúc này thất kỳ đã được gần nửa. Lão nhân lên Điện, giao tôi đánh hương bảng cảnh sách, ngồi ghế Đường Chủ, luân lưu khai thị. Người tham dự đông nghẹt. Lão nhân khai thị âm thanh thật là hòa nhã.

Thất kỳ viên mãn. Lúc tôi đảnh lễ từ biệt, Ngài nắm tay tôi nói:

– Các ông đợi năm tới hãy sang Hương Cảng. Hôm nay ra đi rồi, có muốn quay về lại e cũng khó.

Rời chùa hơn trăm bước, tôi ngoái đầu lại nhìn, thấy Hòa Thượng vẫn còn đứng trước Điện Thiên Vương chắp tay tiễn biệt. Tôi quay lại đảnh lễ Ngài, xin Ngài hãy đi vào. Rồi tôi quay đi, bước được vài bước, ngoái nhìn lại vẫn thấy Lão nhân đứng đó chắp tay đưa tiễn. Đây là lần thứ hai tôi thân cận Ngài Hư Vân.

Sầm Học Lữ giải thích: (Bản thảo này là khi Hòa thượng Hư Vân viên tịch rồi pháp sư Long Tuyền mới gởi đến làm kỷ niệm. Nhân có liên quan đến Cổ Sơn và Vân Môn nên tôi cho phụ biên vào đậy).

NĂM TÂN MÃO (1951) 112 TUỔI

Vào giới kỳ mùa xuân, Vân Môn xảy ra biến sự.

Nhớ lại mùa hạ năm Kỷ Sửu (1949), Hòa thượng nhận lời mời của họ Phương, từ Vân Môn đến Hương Cảng. Một hôm, hòa thượng hỏi Sầm Học Lữ về chuyện người nhà mưu phản. Đàm luận xong, Sầm thưa:

– Thời cuộc biến đổi như thế này, con nên về đâu ở mới hợp và an?

Sư trầm ngâm một lúc bảo:

– Người học đạo đi đến đâu cũng là quê hương, buông hết thì là đạo tràng, cư sĩ hãy khéo an tâm.

Sầm hỏi tiếp:

– Các chùa viện Đại Lục khó tránh được bất ổn, sao Hòa thượng không tạm lưu lại Hương Cảng cho dễ bề hoằng pháp độ sinh?

Sư đáp:

– Việc hoằng pháp đã có người lo, phần tôi còn có trách nhiệm riêng, về bản thân tôi thì chuyện đi ở đâu có gì đáng để bận lòng, song nghĩ đến các Tự viện, Am thất… ở nội địa đang lâm nguy. Nếu tôi ở lại Hương Cảng thì mấy vạn Tăng, Ni bên đó, ai sẽ hộ trì chở che cho họ? E là họ sẽ càng thống khổ khốn đốn hơn. Bởi vậy lòng tôi rất lo. Tôi cần phải trở về…

Sầm không dám nói gì thêm nữa. Thế là Sư về Vân Môn.

BIẾN SỰ THẢM KHỐC Ở VÂN MÔN

Mùa xuân, năm Tân Mão (1951), trong lúc mở Giới đàn, tứ chúng vân tập, lúc này Tăng trong chùa có hơn 120 vị.

Thứ bảy, ngày 24/2/1951 ÂL bỗng có hơn trăm người đến bao vây chùa, cấm không cho ai ra vào. Đầu tiên, họ bắt Hòa thượng Hư Vân nhốt trong Phương Trượng, cắt vài người canh gác rồi đem Tăng chúng nhốt vào các nơi như Thiền Đường, Pháp Đường, và tiến hành khám xét toàn chùa. Họ lục soát rất kỹ, từ mái ngói đến nền gạch, các Tôn tượng Phật, Tổ cho đến pháp khí, Kinh Tạng… họ đều lật kiếm tỉ mỉ. Họ huy động hết toàn bộ thuộc hạ có đến cả trăm người, xúm nhau lục lọi trong chùa Vân Môn ngót hai ngày trời mà không thu được gì. Thế là họ bắt Giám viện Minh Không và các sư trong Ban chức sự như: Duy Tâm, Ngộ Huệ, Chân Không, Duy Chương… giải đi. Họ còn quơ hết sổ sách, sổ bộ, thư từ qua lại cùng các pháp ngữ, văn tự, kinh điển… (chú giải cả trăm năm của Hòa thượng Hư Vân), dồn vào bao chở đi hết, sau khi đã gán cho Ngài một mớ tội lỗi lớn… vì họ nghĩ là Hòa thượng đang cất giấu nhiều của cải kếch xù, hẳn Ngài phải có nhiều tiền mới xây được chùa (đây chính là mục đích chính kiếm tìm của họ).

Mấy ngày sau đó, họ bắt thêm 26 vị Tăng nữa, dùng đủ cực hình tra tấn tàn độc, buộc chư Tăng phải khai chỗ Hòa thượng giấu vàng. Nhưng tất cả chư Tăng đều nói không biết nên họ tiếp tục tra khảo, đánh đập…

Sư Diệu Vân bị họ đánh chết.

(Lược ghi tiểu sử Sư Diệu Vân:

Sư họ Trương, tốt nghiệp Đại Học Hồ Nam, từng giữ chức Bộ Tài Chính. Ngoài ba mươi vẫn chưa cưới vợ, 38 tuổi theo Hòa thượng xuất gia. Hòa thượng trước đây thấy pháp mạch Vân Môn không người nối tiếp rất lấy làm tiếc, nên khi trùng hưng Vân Môn Ngài đã độ hơn 40 người để dành kế thừa pháp mạch Vân Môn. Lúc nhận Sư vào tu, Ngài đã kỳ vọng Sư sẽ chấn hưng đạo tràng Vân Môn, nên mới đặt cho pháp danh Diệu Vân, pháp hiệu Thiệu Môn (Mà không hề lấy chữ Khoan đứng đầu như các đệ tử khác). Diệu Vân xuất gia rồi rất siêng năng tinh tấn, không phụ lòng kỳ vọng của Tôn sư. Lúc Vân Môn xảy ra biến sự, Sư bị đánh đến chết, thật tiếc và buồn biết bao).

Sư Ngộ Vân bị đánh gãy chân, sư Thể Trí… bị đánh gãy tay. Ngoài ra còn có một số Tăng bị mất tích. Họ tra tấn, lục soát ngót mười ngày mà không tìm ra được gì, thế là họ trút hết thinh nộ vào Hòa thượng Hư Vân.

Thứ sáu, ngày 1/3/1951 ÂL, họ bắt Sư nhốt vào thất kín, truyền đóng hết các cửa cái và cửa sổ lại, bỏ đói Ngài, và cấm không cho ra ngoài đại tiểu tiện dù ngày hay đêm, chỉ cho để một ngọn đèn lù mù, giống như cảnh địa ngục.

Hai ngày sau (tức chủ nhật mồng 3/3/1951 ÂL), hơn 10 người lực lưỡng kéo vào thất, ép buộc Sư phải giao nộp vàng, bạc, súng ống cho chúng. Sư bảo là không có. Họ bèn thẳng tay đánh đập, ban đầu thì dùng gậy, sau dùng côn sắt, họ quất tới tấp vào đầu, cổ, khắp thân thể Sư. Vừa đánh vừa nạt nộ tra hỏi. Tiếng dùi cui và cây sắt bổ xuống nghe rầm rầm. Sư lỗ đầu, chảy máu, gãy xương sườn… nhưng Ngài cứ nhắm mắt, ngậm miệng làm thinh giống như nhập định. Hôm ấy, bọn chúng lôi Sư xuống đất tra khảo, đánh đập dã man tới bốn lần. Đến khi thấy tình trạng Sư quá nguy kịch, chỉ còn chờ chết, chúng mới kéo nhau đi. Đợi đêm xuống, vị Tăng thị giả lẻn vào thất, đỡ Sư lên giường.

Thứ ba, ngày mồng 5, nghe tin Sư vẫn chưa chết, chúng bèn xông vào thất, thấy Sư vẫn ngồi nhập định như cũ, chúng càng căm tức, tiếp tục dùng gậy gộc, côn sắt đánh đập và lôi Sư xuống đất. Cả chục tên mang giày đinh, leo lên người Sư mặc sức giày xéo, giẫm đạp… Tai, mắt, mũi, miệng Sư đều xuất huyết. Sư nằm dài trên đất, không nhúc nhích. Chắc mẫm là Sư đã chết, chúng bèn bỏ đi. Đêm xuống, vị Tăng thị giả lại đỡ Sư lên giường, Sư ngồi ngay ngắn như cũ.

Sáng chủ nhật, mồng 10/3 ÂL, Sư từ từ nằm xuống theo thế Cát tường (giống như tượng Phật nhập Niết-bàn). Trải qua một ngày một đêm, không thấy động tĩnh, thầy thị giả bèn lấy đèn cầy đưa trước mũi Sư, thấy ánh lửa không dao động, nghi là Sư đã viên tịch, nhưng thấy cơ thể Sư còn ấm, nhan sắc vẫn tươi tốt như thường nên hai vị thị giả đứng bên canh chừng.

Đến sáng sớm thứ hai, 11/3 năm Tân Mão (tức 16/4/1951 Dương lịch), nghe Sư cất tiếng rên nho nhỏ, thị giả vội đỡ Sư ngồi dậy rồi trình Ngài rõ thời gian đã qua. Sư nói:

– Ta có cảm tưởng như mới vài phút thôi.

Rồi Sư chậm rãi nói với thị giả Pháp Vân:

-Thần thức Thầy đi lên cung trời Đao Lợi nghe pháp. Thật là cảnh giới thiền định sâu xa, khổ vui đều xả! Thuở xưa, lúc ngài Hám Sơn (Tử Bá) thọ hình cũng thấy cảnh giới tương tự thế này, những ai chưa chứng ngộ không thể diễn tả hay nói thay được…

Im lặng một chút Sư nói tiếp:

– Con mau cầm bút ghi lại lời ta, chớ khinh suất nói cho người biết, e họ sẽ không tin và sẽ hủy báng.

Xong, Sư thong thả kể:

– Ta nằm mộng thấy mình đến Nội viện của cung trời Đâu Suất, nhìn rất trang nghiêm tráng lệ, thế gian tuyệt chẳng có nơi nào sánh được. Lúc này Bồ Tát Di Lặc đang ngồi trên tòa thuyết pháp. Thính chúng rất đông, trong số đó có hơn mười người ta từng quen biết như: Hòa thượng Chí Thiện chùa Hải Hội tỉnh Giang Tây, Sư Dung Kính ở núi Thiên Thai, Ngài Hằng Chí Công ở Kỳ Sơn, Hòa thượng Bảo Ngộ ở Cung Bách Tuế, Hòa thượng Thánh Tâm ở Bảo Hoa sơn, Luật Sư Độc Thể, Hòa thượng Quán Tâm ở chùa Kim Sơn và Tôn giả Tử Bá (Hám Sơn) ta cung kính chắp tay vái chào, các vị ấy chỉ ta ngồi vào tòa trống thứ ba, hàng đầu bên phía Đông, sát bên Tôn giả A Nan (lúc này đang làm Duy na). Bồ Tát Di Lặc đang giảng về ‘Duy Tâm Thức Định”. Ta chưa nghe hết thì Bồ-tát bỗng chỉ vào ta bảo: “Hãy trở về đi!” Ta thưa: “Đệ tử nghiệp chướng sâu nặng, chẳng muốn quay về”. Bồ-tát bảo: “Ông nghiệp duyên chưa hết, hãy về đi, ngày sau sẽ lên đây lại”. Rồi Ngài đọc bài kệ:

“Thức trí hà phân Ba thủy nhất cá Mạc muội bình bồn Kim vô hậu bạc Tánh lượng tam, tam Ma thằng oa giác Nghi thành cung ảnh Bệnh duy khử hoặc Phàm thân mộng trạch Huyễn vô sở trước Tri huyễn tức ly Ly huyễn tức giác Đại giác viên minh Kính giám sum la Không hoa phàm thánh Thiện ác an lạc Bi nguyện độ sinh Mộng cảnh tư tác Kiếp nghiệp đương đầu Cảnh thích phổ giác Khổ hải từ hàng Vô sinh thoái khước Liên khai nê thủy Đoan tọa Phật đà.

Thức trí nào phân Sóng nước đồng thể Chớ lầm bình bồn Vàng đâu dày mỏng Tánh lượng ba ba Sừng ốc dây thừng Ngờ là bóng cung Bệnh, cần trừ mê Nhà mộng, thân phàm Huyễn – không chỗ chấp Biết huyễn tức ly Ly huyễn tức giác Đại giác sáng tròn Soi khắp sum la Không hoa, thánh phàm Thiện ác an lạc Bi nguyện độ sinh Cảnh mộng này tạo Kiếp nghiệp đương đầu Cảnh giác, giác khắp Thuyền từ biền khổ Chớ sinh thối bước Bùn nhơ sen trổ Phật đà đoan tọa.

Đoạn sau còn rất nhiều nhưng ta chẳng nhớ hết. Ngài còn khai thị riêng nhưng ta không thể nói ra.

Vài ngày sau, những người từng hành hung Sư đến, cũng cảm thấy là Ngài quá lạ lùng, trong lòng ho bắt đầu dao động và lo lắng nên cứ xì xầm với nhau.

Một tên có vẻ là thủ lĩnh, chất vấn các vị Tăng:

– Này, lão già đó vì sao đánh mãi mà vẫn không chết vậy?

Chư Tăng đáp:

– Hòa thượng vì chúng sinh chịu khổ, do không muốn các ông bị nạn nên Ngài cam bị đánh đập mà không chết. Sau này, các ông sẽ hiểu…

Nghe nói vậy họ rất sợ, từ đó không còn dám ra tay tàn độc với Hòa thượng nữa. Nhưng chuyện đã bị lộ và đồn lan khắp nơi. Mưu ác chưa đạt, vàng bạc chưa lấy được, thêm bị tiếng xấu đồn vang, do vậy, họ càng khẩn trương bao vây chùa, gấp rút lùng sục tra xét. Đối với Tăng sĩ, họ cấm không cho trò chuyện, ra vào. Việc ăn uống cũng bị hạn chế, giám sát. Tình trạng này kéo dài hơn một tháng. Lúc này, những vết thương trên mình Sư đều làm độc, bệnh tình Ngài mỗi ngày một nặng, mắt không còn thấy, tai chẳng nghe rõ. Các đệ tử lo xảy ra chuyện bất trắc nên nài nỉ xin Sư thuật sơ chuyện bình sinh của Ngài, thế là bản thảo Niên Phổ Tự Thuật của Sư được ghi ra kể từ giây phút đó.

Khoảng tháng tư âm lịch, biến cố tại Vân Môn dần dần được đồn tới Thiều Châu. Trước tiên, Tăng chúng ở chùa Đại Giám, Khúc Giang báo tin cho chư đệ tử của Sư tại Bắc Kinh và các bạn đồng môn nơi hải ngoại, thế là họ liên lạc nhau, khẩn trương tìm cách cứu viện. Chính quyền Bắc Kinh đánh điện xuống yêu cầu chính phủ địa phương phải thẩm tra nghiêm xét việc này. Nhờ vậy bọn người dữ bao vây chùa mới chịu nới lõng vòng vây, nhưng lương thực, y vật… đều bị chúng cướp mang đi hết. Sư từ khi bị trọng thương về sau, chẳng thể ăn cơm cháo, mỗi ngày chỉ uống nước trong. Biết chùa đã hết lương thực, Sư bảo với chúng Tăng rằng:

– Lão đây nghiệp nặng, làm lụy đến các vị. Việc đã đến nước này, các vị hãy chia ra đi ở các nơi khác để bảo toàn tánh mạng.

Nhưng Tăng chúng chẳng ai chịu bỏ Sư ra đi. Họ hợp nhau ra sau núi đốn củi, tùy sức mình mà lao động và gánh hàng ra chợ bán, lấy tiền mua gạo đem về nấu cháo cho cả chùa cùng ăn, sớm hôm vẫn giữ đúng thời khóa tụng niệm tọa thiền.

Khoảng thượng tuần tháng 5, chính phủ Bắc Kinh phái một số chuyên viên đến Quảng Đông, hợp cùng nhân viên chính phủ tỉnh Quảng Đông. Ngày 22 tháng 5 phái đoàn đến huyện Nhũ Nguyên. Ngày 23 (tức 28/6/1951 dương lịch), họ tới chùa Vân Môn để điều tra sự thật, mang theo nhân viên kỹ thuật, máy ghi âm, máy chụp hình… Trước hết họ an ủi, hỏi thăm pháp thể Sư có được khinh an không?

Lúc này, Sư đang nằm trên giường bệnh, tai điếc mắt mờ, không hề biết chính phủ Trung ương Bắc Kinh và Quảng Đông cử người đến điều tra, nhìn thấy cảnh sát địa phương, Sư càng không muốn nói.

Phái đoàn hỏi: – “Sư có bị ngược đãi không? Tài vật có bị mất mát gì không? Sư đều đáp: “Không”. Mãi đến sau này khi các quan giải thích rõ về thân phận địa vị mình, Sư mới lên tiếng: – “Mời các vị cứ điều tra sự thực rồi về kinh đô báo cáo”. Các quan an ủi nhiều lần, rồi truyền lệnh cho Ty hữu trách địa phương phải điều tra minh bạch. Việc trước nhất là họ phóng thích các vị Tăng đang bị giam.

Tính ra, chùa Vân Môn bị nạn gần ba tháng (từ ngày 24 tháng 2 đến ngày 23 tháng 5) mới được giải vây, thoát khổ.

Trong thời gian này, tình hình phức tạp lắc léo khó mà biết hết được.

Từ mùa thu đến sang đông, sau khi bị trọng thương, bệnh nặng; Sư phải nghĩ ngơi dưỡng bệnh. Tăng chúng khoảng trăm người cũng chỉ đốn củi, trồng trọt cùng làm các nghề thủ công sinh sống qua ngày. 110 thôn làng ở vùng phụ cận nghe tin Vân Môn đã được giải vây, đều kéo đến vấn an Hòa thượng. Các đệ tử của Sư ở kinh đô, trong và ngoài nước cũng lo tìm đủ cách để đưa Sư rời khỏi Vân Môn. Lúc này có nhiều thư và điện tín gởi đến Ty hữu trách địa phương, ân cần khuyến khích an ủi Sư. Biến sự xảy ra ở Vân Môn đến đây xem như chấm dứt.

Chú thích của Sầm Học Lữ:

Tập Niên Phổ đầu tiên, mới ghi đến tháng 3 năm Tân Mão (1951), thì hoà thượng Hư Vân bệnh nặng nên đình lại. Năm Nhâm Thìn Biên tập, năm Quí Tỵ (1953) ấn hành, tính đến nay (1958) đã được năm năm. Sau biến cố xảy ra ở Vân Môn, đường đi nghẽn lối, thư từ bặt tin. Trong thời gian đó, có biết được tin gì cũng không rõ ràng, vì xuất phát từ các lời đồn đãi khác nhau, do vậy mà tôi không dám ghi lại. Nhiều năm đã trôi qua, sự thật đã rõ, các nhân sĩ trong và ngoài nước đều rất quan tâm đến hành trạng của Hòa thượng Hư Vân. Vì vậy nên tôi mới lược thuật bổ túc thêm, song cũng chỉ nói được những gì có thể nói mà thôi.

Phụ lục:

VÂN MÔN SƠN CHÍ TỰA

Sầm Học Lữ ghi

Năm nay, Hòa thượng Hư Vân 112 tuổi. Tháng 3, Ngài đem bản thảo Vân Môn Sơn Chí từ Nam về trao cho tôi, bảo hãy biên tập và hiệu đính. Tôi xem bản thảo (đã được quý Thầy Thích Duy Tâm, Thích Diệu Vân, Trừng Viên phân loại, chia phần, lập chương, đề tựa)…, so với bản Sơn Chí của các vị trước thì có khác. Khi họp lại bàn luận với nhau, xét thấy không cần phải giống với các bản Sơn Chí kia. Chỉ cần hiệu đính thêm bớt chút, sáp lại theo thứ lớp là được.

Nhớ lại, từ khi tổ Văn Yển đến khai sơn Vân Môn, tới nay đã hơn nghìn năm. Thuở tổ Văn Yển còn sinh tiền, Ngài hoằng hóa rất rộng. Đệ tử đạt yếu chỉ, nối pháp có đến 76 vị, Những vị truyền tông sau này tính tu sĩ lẫn cư sĩ… có đến mấy trăm người. Đạo phong hưng thịnh, rộng truyền khắp nơi.

Từ đời Nguyên, Minh về sau, vận mệnh đạo pháp héo tàn như lá thu. Ngoại trừ Tông Lâm tế, Tào Động còn có người tiếp nối hương lửa, các tông Vân Môn, Quy Sơn, Pháp Nhãn thì bị tuyệt từ lâu…

Xét đạo tràng Vân Môn mà nói thì, lúc Tổ Văn Yển chưa đến nơi đây là một vùng núi hoang, rồi bỗng nhiên mà hiện các ngôi điện vũ thanh tịnh, vạn người vây quanh… Rồi thoắt cái, ngôi cổ tự lại tắt lịm ánh sáng, quỷ núi nhảy reo… Rồi thoáng chốc bỗng nhường cho kinh điển Lão, Nho ngang dọc… Có thể nói là biết bao đổi thay, biến hóa cùng cực. Nhưng, tổ Văn Yển vẫn điềm nhiên ngồi nơi đây, chờ Hòa thượng Hư Vân đến. Hòa thượng đã bỏ mười năm tâm huyết để trùng tu, kiến lập Nam Hoa, rồi thêm mười năm tâm lực nữa để trùng hưng Vân Môn.

Nay, các ngôi Điện vũ lầu các đều được xây cất hoành tráng tôn nghiêm, tất cả đã vào nền nếp, quy cũ. Việc tu bổ núi, chấn chỉnh đạo tràng, giữ gìn các Học Viện Giới, Luật… Người tìm đến, tụ tập vây quanh có tới cả ngàn. Thời đã đến thì được thế thôi… nào có lạ gì? Hẳn tổ Văn Yển ở chốn Thường Tịch Quang sẽ nói rằng: “Như thế, Như thế!”

Hòa thượng sợ để lâu ngày sẽ bị mai một, nên dặn dò tôi biên thuật quyển Sơn Chí cho người sau đọc, hiểu được nguồn gốc của danh sơn. Điều trọng yếu nhất là ở Chương hai, Thiên thứ năm trong Chí Thư này có ghi lại các pháp ngữ của Hòa thượng như: “Tham thiền pháp yếu, Tọa thiền nên biết, Dụng tâm khó và dễ”…

Các bài giảng tâm huyết này là kim chỉ nam quý giá cho người tu Thiền, là con mắt tuệ sáng soi cho trời, là lời vàng dộ thế. Thầm mong người xem sẽ khai mở trí tuệ. Tôi thẹn mình là hàng môn đồ chưa quên tri giải, đành nương vào sự hiểu biết cạn cợt, cầm bút ghi ra, căn cứ vào những gì đã thấy nghe mà thuật lại, chỉ mong người sau giữ được niềm tin, hầu không thẹn với sự dẫn dắt của Sư phụ.

Tiết Đoan Dương, Tân Mão, Sầm Học Lữ ghi.

Phần chú thích về tuổi tác của sư:

Sư bình sinh khổ tu, ai cũng thấy, song mật hạnh Ngài khó mà đoán biết được, về tuổi tác của mình, Sư chẳng nói với ai, sợ họ chẳng tin mà hủy báng. Năm Tân Mão (1951), khi tôi biên bài tựa trong Vân Môn Sơn Chí, đoán là Sư đã được 106 tuổi. Nhưng khi in xong, Sư tự tay thẩm định, chỉnh lại trong Niên phổ, bảo rằng tính đến năm này Ngài đã 112 tuổi. Vậy tôi xin phụ chú vào đây để khỏi lầm về các năm tuổi trong bài tựa Sơn Chí.

08

NĂM NHÂM THÌN (1952) 113 TUỔI

Mùa xuân năm này, Sư vừa mới bớt bệnh, thì hàng ngày đã hướng dẫn chúng tọa thiền hành đạo, thu xếp những việc còn sót lại sau biến sự. Từ tháng giêng dến tháng ba âm lịch, Bắc Kinh đánh điện đến Quảng Đông bốn lần, mời Sư về Bắc Kinh và phái nhân viên hộ tống đến miền Nam đón. Sư báo chúng hay. Mọi người khuyên Sư nên hoãn lại. Sư dạy:

– Đã đến lúc tôi nên đi rồi, hiện nay Tăng-già trong nước, mạnh ai nấy lo giữ thân, không người lãnh đạo. Do thiếu đoàn kết nên rời rạc như cát. Nếu không thống nhất, không tổ chức lại cơ cấu để duy trì lực lượng thì tôi e là không phải chỉ có Vân Môn xảy ra biến sự mà thôi đâu. Tôi chính là vì tương lai Phật pháp nên mới phải về Bắc Kinh. Nói xong Ngài tuyển chọn một vị Tăng lão thành trong chùa chỉ định trông nom viện.

Sắp đặt mọi việc trong chúng xong, Sư ấn định ngày lên đường và tự tay viết một câu liễn:

“Tọa duyệt ngũ đế tứ triều, bất giác thương tang kỷ độ.

(Trải qua bốn triều đại, năm đời vua, chẳng biết bao lần dâu bể).

Thọ tận cửu ma thập nạn, liễu tri thế sự vô thường.

(Chịu hết chín tai mười nạn, mới hay thế sự vô thường).

Rời Vân Môn

Chủ nhật, ngày mồng 4 tháng 4 Â.L (tức 27/4/1952), Sư cùng thị giả Phật Nguyên, Giác Vân, Khoan Độ, Pháp Vân… và các nhân viên hộ tống, lên đường đi Bắc Kinh. Dân chúng trong các thôn làng đến tiễn đưa Sư có hơn mấy trăm người. Sư rời Vân Môn từ đó.

Nhớ năm Dân Quốc thứ 32, Quí Mùi (1943), do Sư đã trùng tu xong Nam Hoa nên đến tháng 12 chống gậy đến Vân Môn. Lúc Ngài mới đến thì nơi đây tường xiêu vách đổ, Điện vũ hoang lạnh. Chỗ gọi là Pháp đường cỏ mọc cao tới ba thước, chỉ có một vị Tăng ở đấy phụng thờ hương hỏa. Từ sau khi Sư đến ở, tứ chúng vân tập tới cả ngàn người. Sư vừa lo việc trùng tu, vừa phải lo cung cấp tứ sự vật thực cho cả trăm người. Vào thời điểm quân Nhật xâm chiếm Trung Hoa, đường giao thông bị cắt đứt, những tháng ngày bị ách nạn đe dọa, gian khổ tăng lên gấp trăm lần so với lúc trùng tu chùa Nam Hoa. Sư chỉ dùng sức Đại vô úy, tập hợp tăng chúng, thuê một số ít nhân công và đích thân làm các việc: nổ đá, nung gạch, đốn cây, xây dựng, sơn phết, tạo tượng, khai khẩn, gieo trồng…

Từ năm Quí Mùi (1943) cho đến năm Nhâm Thìn (1952), trước sau mười năm, Sư kiến thiết các ngôi Điện đường, liêu, lầu, sảnh, kho, Bảo tháp hơn 180 gian, các ngôi Điện vũ cao lớn tráng lệ, đường đường trang nghiêm. Phải nói toàn là những việc khó làm!

Điều đáng ghi nhất là, tông phái Vân Môn truyền được mười đời, đến Quang Hiếu Thâm thì dừng, sau đó thất truyền, chẳng còn người kế tục. Kỳ duyên hạnh ngộ, Sư nghiên cứu phái hệ, độ mấy mươi vị Tăng, giao cho họ nhiệm vụ phải tiếp nối pháp Vân Môn. chấn chỉnh tông phong, nối lại mạch pháp đã đứt đoạn, kéo dài dòng phái cho Vân Môn. Ngài đã dốc hết tâm lực trùng hưng ngót mười năm… Giờ Sư rời Vân Môn ra đi, hẳn Tổ Văn Yển trong cõi Thường Tịch Quang chắc cũng đang gật đầu, mĩm cười.

Đến Thiều Châu

Nhân sĩ ở Thiều Châu cùng các đệ tử nghe tin Sư đến, hơn nghìn người đi trước cả mười dặm để nghênh đón. Khi Sư ở chùa Đại Giám, mỗi ngày số người đến tham lễ đông nghẹt. Ngày mồng 10, Sư đáp xe từ Quảng Đông đến Hán Khẩu, đi về Bắc.

Ngày 11, Sư đến Vũ Xương, ở chùa Tam Phật. Vì đi đường cực nhọc, các vết thương do bị đòn roi hoành hành làm độc, cư sĩ Trần Chơn Như đưa Sư đi trị liệu, lo thuốc thang, tận tụy chăm sóc. Viện chủ chùa là Hòa thượng Đại Hàm cũng dốc lòng lo cho, nhờ vậy Sư được an ổn tĩnh dưỡng. Nhưng bệnh vừa tạm bớt đôi chút thì Sư đã nhận lời mời của Hòa thượng Đại Hàm, khai Quán Âm Thất, qui y cho hơn hai ngàn người. Pháp sự xong, dù chưa lành bệnh, Sư vẫn lên đường đi. Bắc Kinh. Đại chúng chùa Tam Phật mời Sư chụp ảnh lưu niệm, Sư đề một bài thơ:

Nghiệp phong xuy tống chi Vũ Xương Lão bênh trì khu lụy chúng mang Tam nguyệt yêm lưu Tam Phật tự Nhất trường tai nạn nhất tàm hoàng Vô Tâm dục khỏa lâu đầu hạc Hữu nguyện đồng đăng tuyên Phật trường Thượng tưởng Ngọc Tuyền quan tráng mậu Năng ư ngôn hạ ngộ Chơn thường.

Gió nghiệp thổi tôi đến Vũ Xương Thân già bệnh mãi hành chúng luôn Ba tháng náu nương chùa Tam Phật Một trận nạn tai thẹn kinh hòn Vô tâm muôn vượt Lâu Đâu Hạc1 Hữu nguyện đồng lên tuyển Phật trường Qua cửa Ngọc Tuyền2 còn vương vấn Năng3 ngay câu pháp ngộ chân thường.

Ngày 28 tháng 7, được phái đoàn nhân viên hộ tống, Sư cùng các thị giả đáp xe từ Hán Khẩu đi Bắc. Đến Bắc Kinh, đã có phái đoàn tiếp rước gồm chư vị Trưởng lão Tăng, Ni, Phật tử. Các cư sĩ như: Lý Nhậm Triều, Diệp Hà Am, Trần Chân Như… hộ tống Sư đến tạm trú tại chùa Quảng Hóa. Sau đó, do có quá nhiều người đến thăm nên Sư phải dời sang chùa Quảng Tế (ở Tây Thành) cho rộng rãi hơn.

Sau khi đến Bắc Kinh, việc liên lạc trong đạo được thuận tiện và thường xuyên hơn. Trước khi Sư đến, vào khoảng tháng 5, tháng 6, Viên Anh, Triệu Phác Sơ… ở chùa Quảng Tế lo chuẩn bị thành lập Hiệp Hội Trung Quốc Phật Giáo. Các Đại biểu Phật giáo toàn quốc hơn trăm người đến dự đồng ngỏ ý thỉnh Sư làm Hội trưởng. Sư do già bệnh nên từ chối. Vì vậy Triệu Phác Sơ được bầu làm Chánh hội trưởng, Hỷ Nhiêu Gia Thác, làm Phó hội, còn các bậc Cao tăng như đức Đạt-lai-lạt-ma, Ban Thiền Ngạch-nhĩ-đức-ni, Hư Vân, Tra-cán-cát-căn… được suy tôn là bốn Hội Trưởng Danh Dự. Phái đoàn đại biểu có đủ các sắc tộc lớn như Hán, Tạng, Mông, Thái, Triệt. Hiệp Hội Phật Giáo Trung Quốc được thành lập. Phật giáo đồ ở các địa phương có được nơi để liên lạc chặt chẽ, mọi người cùng ước hẹn vào khoảng mùa xuân hay mùa hạ sang năm, sẽ cử hành Lễ thành lập chính thức.

Lo việc thành lập hội xong, Sư dâng thư lên chính phủ, thỉnh cầu công bố khuôn phép chung, quy định cho người dân có tôn giáo trong nước được tự do tín ngưỡng. Đối với việc bảo tồn và quản lý các tự viện Phật giáo, trước mắt xin thi hành gấp những điều như sau:

  1. Dù ở bất cứ nơi nào, cũng không được phá chùa, hủy tượng, đốt Kinh.
  2. Không được ép buộc Tăng, Ni hoàn tục.
  3. Những tài sản của chùa nếu bị Nhà nước tịch thu làm của công rồi, thì xin hãy đền bù bằng cách cấp lại ruộng đất tương xứng cho Tăng chúng canh tác, hoặc tạo điều kiện, giúp đỡ Tăng, Ni lao động sản xuất. Thỉnh cầu chánh phủ chấp nhận cho Tăng Ni được yên tu. Riêng các tự viện thuộc danh lam thắng cảnh, xin chính quyền cho phép tu bổ sửa sang lại.

Thứ tư ngày 13 tháng 8 Â.L (tức 01/10/1952 DL) Sư đại diện cho Phật giáo đồ toàn quốc dự Lễ tiếp nhận ba bảo vật do Tích Lan trao tặng cho Trung Quốc. Trưởng đoàn Đại biểu Tích Lan là Pháp Sư Đạt Ma Lạp Tháp Nạp, đến Trung Quốc, đem theo ba bảo vật quí là xá lợi Phật, Kinh lá bối cùng cây Bồ-đề để tặng cho Phật giáo Trung Quốc, ấn định Lễ tiếp nhận sẽ được cử hành tại chùa Quảng Tế.

Ngày hôm ấy, trước tiên, phái đoàn ngồi trên xe rước lễ với đầy đủ hương hoa gồm các vị Thích Cự Tán, Thánh Tuyền, cư sĩ Triệu Phác Sơ… đồng đi nghênh đón đoàn Đại biểu Tích Lan. Trong chùa bốn chúng tụ hội hơn hai ngàn người, sắp hàng dài đứng trước điện cung nghinh. Khi đoàn Đại biểu đến, chuông trống đều nổi lên. Vị Sư trưởng đoàn Tích Lan mang các bảo vật đặt trên bàn. Hòa thượng Hư Vân bước ra, thay mặt Phật giáo Trung Quôc đến tiếp nhận và ngỏ lời cảm tạ, đại ý thế này:

“Phật giáo hai nước chúng ta vốn có tình giao hảo mật thiết lâu đời trong lịch sử, nguyên sẽ đoàn kết trong tinh thần từ bi trí huệ của nhà Phật, vì nền Hòa bình vĩnh cửu của thế giới, quí vị đã cống hiến cho chúng tôi những vật quí báu như thế này…”

Buổi lễ rất tôn nghiêm, long trọng, có đủ Đại biểu Phật giáo các nước như Úc Châu, Miến Điện, Canada, Ấn Độ, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ v.v… tham dự.

Tháng 9, các phái đoàn cùng chư Trưởng lão trên núi khẩn khoản mời Sư về trụ trì chùa Quảng Tế. Sư nói mình già bệnh nên từ chối.

Tháng 10, hàng nhân sĩ Thượng Hải mở Pháp Hội Cầu Nguyện Thế Giới Hòa Bình, mọi người thỉnh Sư làm chủ trì, phái Phương Tử Phan v.v… lên kinh đón Sư.

Thứ năm, (25/10 Â.L) tức ngày 11/12/1952, Sư lên xe đến trạm Bắc Thượng Hải. Tại đây có hơn trăm người cầm cờ, dâng hoa, đồng niệm Phật nghênh đón. Lúc này tại trạm xe, có tới ngàn mấy trăm người. Ban đầu họ vỗ tay chào đón, sau đó đồng thanh niệm Phật, Lễ nghênh đón rất trang nghiêm, chan hoà niềm hoan hỉ. Cõi Ta-bà trong phút chóc bỗng biến thành Cực Lạc. Đức cảm hoá của bậc Thánh như Sư là thế đấy.

Sư ở chùa Ngọc Phật bàn tính với ban tổ chức rằng Pháp hội sẽ kéo dài suốt 49 ngày. Bắt đầu từ Thứ sáu, ngày 26 tháng 10 âm lịch (tức 12/12/1952 DL), Đạo Tràng Thủy Lục được khai mở dưới sự chủ trì của Sư. Có thỉnh mười vị Đại pháp sư đến dự hội như: Viên Anh, Ứng Từ, Tĩnh Quyền, Trì Tùng, Diệu Chân, Đại Bi, Như Sơn, Thủ Bồi, Thanh Định, Vi Phang… làm chủ các Đàn Kinh. Chư vị Đại sư lo việc tu trì khoá Lễ pháp sự này gồm 72 vị. Đến thứ tư ngày 14 tháng chạp Â.L (tức 28/1/1953) thì kết thúc.

Trong khoảng thời gian mở đàn tràng, ngoại trừ những lúc phải vào đàn làm chủ pháp ra, sáng, trưa, chiều, đều có người đến tham bái Sư đông như nước triều dâng, có những người từ chốn xa xôi như tỉnh Tương, tỉnh Ngạc (Hồ Bắc) đã vượt ngàn dặm đường tìm đến. Số người xin quy y trước sau hơn 40 ngàn người. Tổ chức Pháp hội được chia làm mười ban: Báo danh, Đăng ký, Phân ban, cấp điệp v.v… Trong Pháp hội này, tiền chi ra hơn ba tỷ đồng, thu được hơn sáu tỷ bảy mươi sáu triệu đồng, trừ đi số chi thì tổng số tiền còn lại được hơn ba tỷ đồng (tương đương hơn 70 ngàn đồng tiền Hương Cảng tính vào năm 1952). Sư đều giao cho pháp hội, không giữ lại một mảy tơ, dù mọi người đều thỉnh Sư tùy ý sử dụng số tiền này, cuối cùng tiền được cúng dường hết cho các ngôi Đại danh sơn như Phổ Đà ở Chiết Giang, Ngũ Đài ở Sơn Tây, Cửu Hoa ở An Huy, Nga Mi ở Tứ Xuyên…) và 8 ngôi chùa lớn (Thiển Đồng, Dục Vương, Quán Tông, Thất Tháp ở Ninh Ba, Cao Mân (Dương Châu), Linh Nham (Tô Châu), và Cổ Sơn, Địa Tạng ở Phước Châu cùng 256 các ngôi già lam lớn nhỏ trong toàn quốc.

Đó là sơ lược chuyện Sư làm pháp chủ Đạo Tràng Thủy Lục ở Thượng Hải.

ĐÁP LỜI KHÁCH HỎI VỀ THIỀN, TỊNH

Nhân có khách hỏi về Thiền và niệm Phật, dẫn lời Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ:

Có Thiên không Tịnh độ Mười người lạc hết chín.

Và thắc mắc về hậu thân của Thiền sư Ngữ Tổ Giới là Tô Tử Chiêm (Tô Đông Pha) cho đến vị tăng Nhạn Đảng sau sinh làm Tần Cối…

Sư đáp:

– Kinh Lăng Nghiêm có nói: Khi Bồ-tát Văn Thù lựa chọn pháp Viên Thông có thuyết bài kệ rằng:

Quy nguyên tánh vô nhị Phương tiện hữu đa môn Thánh tành vô bất thông Thuận nghịch giai phương tiện

Về nguồn tánh không hai Phương tiện có nhiều cửa Thánh tánh đâu chẳng thông Thuận nghịch đều là phương tiện.

Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ có làm bài Tứ Liệu Giản về Thiền và Tịnh như thế này:

Hữu Thiền vô Tịnh độ Thập nhân cửu sai lộ Âm cảnh hốt hiện tiền Miết nhĩ tùy tha khứ. Vô Thiền hữu Tịnh độ Vạn tu vạn nhân khứ Đản đắc kiến Di Đà Hà sầu bất khai ngộ. Hữu Thiền hữu Tịnh độ Du như đới giác hổ Hiện thế vi nhân Sư Lai sinh tác Phật Tổ. Vô Thiền vô Tịnh độ Đồng sàng tinh thiết trụ Vạn kiếp dữ thiên sinh. Một cá nhân y hổ.

Có Thiền không Tịnh độ Mười người lạc hết chín Âm cảnh hiện trước mắt Lập tức theo nó liền. Không Thiền có Tịnh độ Vạn tu vạn đến chỗ Chỉ thấy Đức Di Đà Lo gì không khai ngộ? Có Thiền có Tịnh độ Cũng như cọp mọc sừng Hiện đời làm Thầy người Kiếp sau làm Phật Tổ. Không Thiền không Tịnh độ Giường đồng cùng cột sắt Muôn kiếp và nghìn đời Không một người cứu giúp.

Gần đây, người tu Tịnh độ, đa số đều chấp vào bài Tứ Liệu Giản này và rất ít khi để tâm nghiên cứu bài kệ Viên Thông. Nhưng đối với Tứ Liệu Giản đa số vẫn còn hiểu lầm, chẳng những cô phụ Bồ tát Văn Thù mà còn gieo lụy cho Ngài Vĩnh Minh. Bởi, đối với các pháp môn quyền thật, đã không thể dung hội quán thông, lại còn so sánh các pháp Thiền, Tịnh khó hòa họp nhau như nước với lửa. Hư Vân đối với việc này không thể không nói.

Tổ Diên Thọ họ Vương, quê ở Dư Hàng, sinh vào đời Tống. Ngài là một trong ba vị Tổ sư của Trung Quốc trước thuật nhiều tác phẩm nhất.

Trong Phật Tổ Thống Ký, quyển 26 kể:

“Thời Ngô Việt Tiễn, Ngài làm quan chuyên coi việc thâu thuế, lấy tiền kho đem mua cá phóng sinh. Sự việc lộ ra, Ngài bị kết tội đem đi chém giữa chợ. Ngô Việt Vương sai người đến xem, dặn: “Nếu thấy y đổi sắc thì giết, còn không đổi thì tha”. Nhờ không đổi sắc mặt, Ngài được ân xá. Nhân đó Ngài đến Thiền sư Thúy Nham xin xuất gia. Mặc không cần đẹp, ăn không chuộng ngon. Sau Khi đến tham vấn Quốc sư Thiều, Ngài phát minh được tâm yếu. Tại Thúy Nham, Ngài làm hai lá thăm. Một lá ghi suốt đời Thiền định, lá thứ hai viết: Tụng Kinh, tu vạn thiện để trang nghiêm Tịnh độ, rồi thầm cầu nguyện. Sau đó Ngài bắt được lá thăm Tụng Kinh, tu thiện” đến 7 lần.

Ngài là vị nối pháp đời thứ ba của Thiền sư Pháp Nhãn, trước tác sách vở rất nhiều như:

– Tâm Phú và Tâm Phú Chú; giảng về việc minh tâm kiến tánh.

” Vạn thiện Đồng quy: giảng về pháp pháp viên dung.

– Tông Cảnh Lục: 100 quyển, xiển dương ý chỉ Thiền tông, dung hội các tông phái, quy về nhất tâm. Tông Cảnh Lục lấy tâm làm tông, lấy ngộ làm quy tắc. Các thuyết tuy có sâu cạn, đều nói đến tận nguồn suốt đáy, các pháp vi tế nhất cũng hiển xuất tâm này, bỏ tà giúp chánh, khiến cho người sau không bị rơi vào đường tẽ.

Bình sinh Ngài giảng thuyết rất nhiều, nhưng chưa hề nói là Tông nào không tốt. Ngài cũng đã từ Thiền tông mà được ngộ nhập, sao lại hoằng dương Tịnh độ? Bởi vì đối với người đại ngộ, pháp pháp đều viên thông. Tham thiền là đạo, niệm Phật cũng là đạo, cho đến như chúng ta lao động cuốc đất cũng là đạo. Ngài vì muốn cứu vãn căn cơ của kẻ hạ liệt của thời mạt pháp nên mới hoằng dương Tịnh độ. Ngài cũng là vị Tổ thứ sáu của Tịnh Độ Tông. Một đời tán dương Tịnh độ, sau khi thị tịch được mọi người tôn trọng, xây tháp kỷ niệm tại chùa Tịnh Từ.

Trong Phật Tổ Thống Ký còn kể: “Có vị Tăng từ Lâm Xuyên đến, nói: Trong lúc tôi bị bệnh, thấy mình xuống cõi u minh nhưng được tha về, nhìn trong Điện có hình tượng một vị Tăng mà vua Diêm La đích thân đến đảnh lễ. Tôi hỏi: “Tượng đó là ai”. Chúa Sứ nói: Đó là Thiền sư Diên Thọ ở Hàng Châu. Nghe nói Ngài đã sinh về Thượng Phẩm, nhà vua rất kính quí đức độ Ngài nên thờ ở đây.”

Phật giáo đồ Trung Quốc lấy ngày 17 tháng 11 làm ngày vía Đức Phật Di Đà, là căn cứ vào Kinh sách nào? Kinh Di Đà nói: Đức Phật A Di Đà ở phương Tây, cách đây mười vạn ức cõi Phật – Vậy thì ai biết được 17 tháng 11 là ngày sinh của Phật A Di Đà? Thật ra đó chính là ngày sinh của Thiền sư Vĩnh Minh. Bởi vì Ngài thừa nguyện Đức Di Đà tái sinh, cho nên mới lấy ngày sinh của Ngài làm ngày vía Phật A Di Đà.

Khi bài Tứ Liệu Giản xuất hiện, hai tông Thiền, Tịnh đều khởi tranh cãi. Đồ chúng tông Tịnh độ nói: “Có Thiền không Tịnh độ, mười người lạc hết chín” nghĩa là nếu tu Thiền không thôi thì chẳng liễu sinh tử. Còn đơn tu Tịnh độ thì “Vạn người tu vạn người vãng sinh”. Còn vừa Tham Thiền vừa niệm Phật thì sẽ được “Như cọp mọc thêm sừng” Tín đồ Tịnh Độ Tông phê bình. Thiền Tông đến nay vẫn còn ồn ào, thường rêu rao sự tệ hại của tham Thiền, rồi dẫn chứng:

– Thiền sư Giới tái sinh làm Tô Tử Chiêm (Đông Pha). Thanh Thảo Đường tái sinh làm Tằng Lỗ Công. Thiện Mân đọa làm Đổng Tư Học Nữ, Hải Ân đọa làm Chu Phòng Ngự Nữ. Thậm tệ hơn, tăng Nhạn Đảng bị đọa làm Tần Cối (một tay có nhiều quyền thế tạo lắm ác nghiệp) v.v…

Họ nói những người trên, nếu biết qui hướng cầu về Tịnh độ thì đâu đến nỗi phải đọa làm thường nhân, phụ nữ hay ác nhân? – tức là bị chuyển làm kẻ hạ liệt – Ngay đến việc sinh làm các danh quan cũng chưa phải là chuyện hay. Thật đáng thương vì họ không được sinh về Tây phương!

Riêng tôi nhận thấy người tu khi tái sinh, việc “chuyển xuống làm kẻ hạ liệt” là do người chứ không phải do pháp. Vào thời Đường Hy Tông (874-888) tại Dĩnh Châu, có một kỷ nữ miệng thoảng mùi hương sen. Thục Tăng nói: “Cô gái này trước kia làm Ni, tụng Kinh Pháp Hoa suốt 20 năm”, tụng Kinh Pháp Hoa cũng như hậu thân của người tham Thiền, việc tái sinh làm thường nhân hay nữ nhân v.v… chẳng thể nói là do lỗi của việc tham Thiền.

Bồ-tát Quán Thế Âm có 32 tướng ứng thân, chúng sanh hợp thân nào để hóa độ, thì Ngài liền hiện thân đó để độ, để thuyết pháp – đây không thể nói rằng Bồ-tát Quán Thế Âm ứng thân “triển chuyển hạ liệt” – Hóa thân của Đức Thật A Di Bà là Thiền Sư Vĩnh Minh, hậu thân của Thiền sư Vĩnh Minh là thiền sư Thiện Kế, là cư sĩ Vô Tướng Tống Liêm. Ngài Thiện Kế ở hiên chùa Thọ Thánh, Sương Môn, Tô Châu, chích máu viết một bộ kinh Hoa Nghiêm. Sự nghiệp hoằng pháp của Ngài so với Thiền sư Vĩnh Minh chỉ bằng một nửa. Tống Liêm làm quan, chết không được tốt, tức là không bằng Thiền sư Thiện Kế – cũng khó thể nói rằng Phật A Di Đà đã “triển chuyển hạ liệt”.

Thiền Tông có Thái Thủ tọa ngồi hóa. Chỉ Y Đạo Giả có khả năng chết đi sống lại. Chúng ta hiện nay đã có ai ngồi chêt, đứng tịch? Chúng ta so với Thái Thủ tọa cùng Chỉ Y đạo giả đều không bằng, mà dám xem thường Thiền Tông sao? Tôi công nhận rằng các Tông có cạn có sâu. Hiển giáo, Mật giáo có đốn tiệm, tà chánh thì Niệm Phật cũng vậy. Sự cạn sâu của Thiền, phân ra rất nhiều: Ngoại Đạo, Phàm Phu, Tiểu Thừa, Trung Thừa, Đại Thùa… Tất cả đều có thiền. Thiền của Thiền tông Trung Quốc là Thượng Thượng Thừa Thiền, chẳng đồng với các loại Thiền vừa kể trên. Chỉ vì đời mạt pháp, các hành giả tham Thiền thật sự có bị rơi vào nhiều nẻo sai, nên chẳng lạ lùng gì trong Tứ Liệu Giản, Ngài Vĩnh Minh đã quở trách.

Tôi bình thường hay lưu tâm nghiên cứu sách vở, nhưng chưa từng thấy Tứ Liệu Giản của ngài Vĩnh Minh, chẳng biết được trích từ tác phẩm nào? chỉ nghe thiên hạ truyền miệng đã lâu, chẳng dám nói là ngụy tạo. Người niệm Phật, tâm tịnh thì độ tịnh, tức thấy được tự tánh Di Đà. Nói Tịnh độ với Thiền là hai – bởi do người thời nay phân biệt niệm Phật là Tịnh, tham Thiền là Thiền.

Thuở xưa, đức Phật của chúng ta vượt thành xuất gia vào núi tu đạo. Lúc đầu, theo A-lam-ca-lam ba năm, học Định Bất Dụng Xứ, sau đó thấy sai liền bỏ. Ngài lại đến chỗ Uất-đầu-lam-phất học Định Phi Phi Tưởng, biết sai cũng bỏ. Rồi Ngài đến núi Tượng Đầu, học cùng các Thầy ngoại đạo, mỗi ngày ăn một hạt mè trải qua sáu năm.

Ngày mồng 8 lúc sao Mai vừa mọc, Ngài hoát nhiên đại ngộ, thành Đẳng Chánh Giác, bèn than rằng: “Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều đầy đủ đức tướng trí huệ Như Lai, chỉ do vọng tưởng chấp trước mà không được chứng đắc”. Ngay lúc ấy đâu có Thiền hay Tịnh gì? Từ đó về sau, Ngài thuyết pháp suốt 49 năm, vẫn chưa nói đến chỗ rốt ráo. Mãi đến lúc “Niêm hoa vi tiếu” trao pháp cho ngài Ca-diếp, cũng chưa nói đến chữ Thiền. Thiền là pháp Tối thượng thừa, giống như sữa nguyên chất. Người bán sữa mỗi ngày thêm một ít nước vào, cho đến lúc hoàn toàn không còn chất sữa nữa. Người học Phật pháp khi rơi vào tình trạng giống như sữa nguyền chất bị pha nước thì ngài Vĩnh Minh nhìn thấy, và đối với loại Thiền chỉ toàn là nước này Ngài bèn phán: “Có Thiền không Tịnh Độ, mười người lạc hết chín”, chứ không hề nói loại Thiền thuần sữa là “lạc đường”! Khi Thiền sư Vĩnh Minh thầm khấn nguyện bắt thăm, thì Ngài bắt được lá thăm tu Tịnh đến 7 lần. Nếu Thiền chẳng tuyệt vời thì Ngài quyết không viết lá thăm Thiền bỏ vào, còn nếu Tịnh là pháp môn mà lòng Ngài rất ưa thích, thì Ngài hẳn đã không bắt thăm đến bảy lần rồi mới quyết định! Vả lại, Thiền sư Vĩnh Minh xuất thân từ Thiền tông, là thế hệ thứ Ba của Tông Pháp Nhãn, làm sao có thể ở trong chính bổn hội lại dìm Tông của mình xuống, tuyên bố là Thiền chẳng tốt?

Pháp tham Thiền, cần phải thấy cái “Mặt mũi xưa nay” lúc cha mẹ chưa sinh, mục đích là minh tâm kiến tánh. Người đời sau khi tham Thiền lại hành trái với phương cách này, hễ vừa mới đạt được chút cảnh giới thanh tịnh, toàn thân nhẹ phơi phới, có được chút an tĩnh thì vội cho là đạt công phu, kỳ thực đã bị rơi vào âm cảnh, chẳng rõ một niệm duyên khởi không sinh, làm sao có thể hướng đến chỗ đầu sào trăm thước mà tiến lên?…

Ngài Vĩnh Minh nhân đây mới nói: “Âm cảnh hiện tiền, lập tức đi theo nó, chẳng bằng niệm Phật dốc lòng, có chỗ nương tựa”. Chỉ vì Ngài không nói rõ niệm Phật thế nào mới đạt đến “Vạn người tu vạn người độ”. Có Tịnh Độ mới có thể thầy Đức A Di Đà. Nếu ỷ vào câu “Chỉ cần thấy được Di Đà, lo gì chẳng khai ngộ” làm chỗ nương, thì điều này là lầm, là vọng tưởng rồi! – Bởi vì trong Kinh Lăng Nghiêm, Ngài A-nan bạch Phật rằng: “Từ khi con phát tâm theo Phật xuất gia, ỷ vào oai thần của Phật, thường tự nghĩ: – Mình không cần lao nhọc tu tập, có thể xin Đức Như Lai cho mình Tam muội, con không hề biết là thân tâm vốn chẳng thay nhau được, quên mất bản tâm mình”.

Oai thần của Đức Phật Thích Ca cũng chẳng thể nương cậy, chẳng thể ban cho ta Tam muội, vậy thì oai thần của Đức Phật Di Đà lại có thể nương cậy, có thể ban cho ta Tam muội sao? Cho nên dùng nhất tâm niệm Phật là đê dẹp trừ vọng tưởng. Nếu các pháp đều thông, thì việc tu hành được tốt đẹp. Câu “Có Thiền có Tịnh độ giống như cọp mọc sừng” – Cọp vốn có uy lại mọc thêm hai cái sừng thì càng thêm dũng mãnh, nên làm Thầy, làm Phật là lý đương nhiên. Song, người không có thiện căn, không tin Thiền, cũng không tin Tịnh, lẫn lộn hồ đồ thì “Muôn kiếp cùng nghìn đời không có người giúp đỡ”. Bình sinh tôi chẳng khuyên bảo ai đừng niệm Phật và cũng chưa khuyên người đừng tham thiền. Mỗi khi nhớ đến ý chỉ “Tà Sư nói pháp nhiều như cát sông Hằng” trong Kinh Lăng Nghiêm, là càng thấy thêm đau lòng, vì vậy tôi mới phải giải thích sơ qua ý nghĩa bài Tứ Liệu Giản kia. Đối với hai pháp Thiền, Tịnh do nhìn chẳng thông suốt mới vọng phân cao thấp. Hy vọng tất cả người tu chẳng nên chấp một bên. Được vậy mới không phụ lòng Thiền sư Vĩnh Minh.

DỐC LÒNG NIỆM PHẬT

Giảng tại Ảnh Đường, ngày 21/12/1952 (Nhâm Thìn)

Hôm nay là ngày kỷ niệm 12 năm, ngày ra đi của Pháp sư Ấn Quang. Quí vị đều là đệ tử của Ngài, cùng tụ họp tại Giảng Đường này, uống nước nhớ nguồn, đồng tưởng niệm Sư phụ.

Nói theo đạo lý Phật pháp, thì Thầy là cha mẹ pháp thân. Kỷ niệm Sư phụ tức là tưởng nhớ báo hiếu với cha mẹ pháp thân; so với hiếu thế gian lại càng có ý nghĩa. Nhớ hồi trước có lần tôi cùng với Pháp sư Ấn Quang gặp nhau hồi năm Quang Tự 20 (1894) tại núi Phổ Đà. Lúc ấy Hòa thượng Hóa Văn thỉnh Pháp sư giảng kinh A Di Đà tại chùa. Từ khi giảng Kinh, Ngài ở lại chùa này, xem Đại Tạng Kinh hơn 20 năm chưa từng rời một bước, chuyên đóng cửa ẩn tu cho nên đối với giáo nghĩa Ngài rất tinh thâm. Ngài tuy tinh thâm giáo nghĩa nhưng chỉ dùng một câu A Di Đà Phật để hành trì hằng ngày, nhưng tuyệt không cho là mình đã thông suốt Kinh giáo và chẳng hề khinh thường pháp môn niệm Phật. Pháp của Phật nói ra, không một pháp nào mà không nhắm vào chữa trị bệnh khổ cho chúng sinh. Pháp môn niệm Phật gọi là thuốc tổng trị tất cả bệnh. Bất luận là tu theo pháp môn nào cũng cần có tín tâm kiên cố, nắm lý đạo vững, thực hành sâu, mới thu được lợi ích viên mãn. Có tín tâm kiên cố thì trì Chú mới đạt, tham Thiền mới thành, niệm Phật mới thành, thảy đều giống nhau cả… Nếu tín tâm không sâu, chỉ nương vào chút ít thiện căn của mình, ỷ vào trí huệ và học vấn cạn cơt, hoặc ghi nhớ được vài câu danh tướng, hay mấy công án để ăn nói ba hoa, suốt ngày lo bàn chuyện phải trái thì chỉ làm tăng thêm nghiệp xấu, huân vào tập khí không hay, khi sinh tử đến vẫn bị nghiệp lôi, trôi lăn như cũ, thế mới là đáng buồn!

Các vị là đệ tử của Pháp sư Ấn Quang, hôm nay là ngày kỷ niệm, cũng là kỷ niệm sự hành trì chân thật của Ngài. Pháp Sư đã đạt đến thật địa của bậc chân tu, noi theo dấu của cổ đức. Ngài hiểu rõ nghĩa lý sâu xa trong chương “Niệm Phật viên thông” của Bồ-tát Đại Thế Chí, y theo đó mà tu, được niệm Phật Tam muội, làm lợi ích cho chúng sanh. Mấy mươi năm vẫn như một ngày, không từ lao nhọc. Hiện nay thật khó kiếm được người tu hành chân thật, không khởi kiến chấp phân biệt mình người, chỉ biết dốc lòng nhất tâm hành trì một câu niệm Phật. Sáng cũng niệm, chiều cũng niệm, đi cũng niệm, ngồi cũng niệm. Trong hai khóa, sáu thời, niệm niệm không quên, tha thiết miên mật, công phu được thuần thục, thì tịnh cảnh Di Đà hiện tiền, đạt lợi ích vô biên, tự mình thân chứng.

Cần nhất là tín tâm kiên định. Tâm không kiên thì muôn sự khó thành. Nếu ngày nay tu kiểu Trương Tam, ngày mốt theo Lý Tứ. Hễ nghe người nói tham Thiền tốt, liền bỏ niệm Phật để tham Thiền, rồi nghe người ta nói học Kinh hay, bèn bỏ thiền để học Kinh. Học Kinh chẳng xong, lại nhào qua trì Chú, thứ gì cũng hành dang dở, mịt mịt mờ mờ, gì cũng không minh bạch. Chẳng chịu trách mình tín tâm bất định, quay lại đổ thừa Phật tổ dối gạt chúng sinh. Rồi khởi tâm báng Phật chê Pháp, tạo tội vô gián. Vì vậy tôi khuyên đại chúng phải tin sâu vào lợi ích của Pháp môn Tịnh độ, học theo gương của Pháp sư Ân Quang, dốc lòng niệm Phật, lập chí kiên cố, phát tâm dũng mãnh. Lấy cõi Tịnh độ Tây Phương là đại sự chung thân của mình. Tham Thiền và niệm Phật, đối với người mới phát tâm thì thấy là hai, nhưng đối với người tu tập lâu, công phu thâm sâu thì chung quy chỉ là một. Tham Thiền đề một câu thoại đầu, cắt ngang dòng sanh tử, cũng là từ tín tâm kiên định mà ra. Nếu thoại đầu nắm không vững, Thiền cũng tham chẳng được. Nếu tín tâm kiên định, nếm chặt một câu thoại đầu mà tham, đến nỗi uống trà không biết vị trà, ăn cơm không biết mùi cơm, công phu được thuần thục thì căn trần rơi rụng (thoát lạc), ích lợi hiện tiền. Như vậy, cùng với người niệm Phật công phu thuần thục, Tịnh cảnh hiện tiền, chỉ là một.

Đến được cảnh giới này, lý sự viên dung, tâm Phật không hai. Phật như, chúng sanh như, chỉ một như chứ không hai như, thì sai biệt chỗ nào?

Quí vị tu niệm Phật, tôi hy vong quí vị dùng một câu niệm Phật làm chỗ nương tựa một đời mình.

Hãy dốc lòng, chân thật niệm Phật đi!

BÁO CHÍ NÓI VỀ HÒA THƯỢNG HƯ VÂN Ở THƯỢNG HẢI:

ẤN TƯỢNG VỀ ĐẠI SƯ HƯ VÂN

Thánh Phác

Vào một buổi chiều khác thường ngày 11 tháng 12 năm 1952, khoảng hơn 6 giờ chiều. Nhờ một dịp may, tại ga Bắc Thượng Hải, lần đầu tiên tôi được chứng kiến cảnh tượng ở đây. Nhà ga sáng rực, chung quanh chói lọi ánh đèn, nhìn rực rỡ như thế giới lưu ly. Lúc này trời đã chập choạng tối, tôi còn nhớ mãi bầu không khí trang nghiêm trầm mặc khi bước theo đoàn đại biểu hằng trăm người đi nghinh đón Hoà thượng. Tại nhà ga, ánh đèn cầu vồng trên sân phóng những tia sáng rực rỡ tỏa chiếu như thế giới lưu ly. Tôi có bổn phận phải bao quát cả đoàn đại biểu nhưng trong lòng lại bồn chồn như ánh đèn kia, tràn đầy niềm tôn kính và ngưỡng vọng đối với Hòa thượng Hư Vân.

6 giờ 35 phút, còi tàu hú vang, đoàn tàu Bắc Kinh-Thượng Hải chầm chậm tiến vào Nguyệt Đài, lòng mọi người nao nao, thành kính chuẩn bị cung nghinh Hòa thượng Hư Vân từ Bắc Kinh đến (vị cao tăng kiệt xuất nhất của Phật Giáo Trung Quốc đương thời). Lúc xe lửa dừng lại, tôi tưởng tượng cảnh Hòa thượng đang ở trong tàu và chỉ lát nữa thôi tôi sẽ được trống thấy Ngài, thật khó mà diễn tả được tâm tư tôi và đoàn đại biểu đang hưng phấn đến mức nào.

Một lát sau, Hòa thượng Hư Vân được Thủ lĩnh đoàn đại biểu đỡ Ngài từ trên toa xuống, cung nghinh lên Nguyệt Đài. Mọi người trang trọng chắp tay xá chào, bày tỏ niềm tôn kính. Sau đó, lòng kinh ngưỡng chuyển thành những tràng pháo tay vang dội. Âm vang của tràng pháo tay này thể hiện tâm tư cung kính hân hoan chào đón Ngài, nói thay cho tiếng lòng của toàn thể Phật giáo đồ Thượng Hải, biểu lộ niềm sùng kính nhiệt thành mà tất cả Phật giáo đồ nơi đây muốn dành cho Hòa thượng Hư Vân – Vị Trưởng lão đạo cao đức trọng.

Tôi nghĩ thầm, phải nắm lấy thời cơ và đi theo Ngài, tôi nhìn chăm chàm vào vóc dáng cao gầy của Hòa thượng. Ngài đội trên đầu một chiếc mũ đen trùm kín cả hai tai. Phong thái đạo mạo uy nghiêm, gương mặt cực kỳ từ ái. Ngài bước xuống toa, đưa tay vẫy chào mọi người, không quản chi đến đoạn đường dài lao nhọc mình vừa trải qua, cặp mắt hiển lành từ bi của Ngài chậm rãi nhìn đoàn đại biểu đi nghinh đón. Một cái vẫy tay, một ánh nhìn chăm chú thể hiện lòng quan tâm đến tất cả, cũng tỏ cho chúng tôi biết rằng pháp thể của Ngài hiện vẫn còn khang kiện. Tôi là người vốn rất ngưỡng mộ và đang âu lo cho tình hình sức khỏe Ngài, lòng thật sự vui mừng khi biết Ngài bình an. Còn toàn thể Phật giáo đồ Thượng Hải? Chắc chắn là vô cùng phấn khởi. Phái đoàn đại biểu chúng tôi nghinh đón Hòa thượng, theo gót Ngài rời khỏi ga, đồng cất tiếng niệm Phật vang rền, nhiều hành khách bên trong cũng vỗ tay niệm Phật theo. Quang cảnh rộn rịp ấy đã gây cho tôi một khái niệm rằng: ngay bây giờ đây, chỗ nào Hòa thượng Hư Vân đến, chỗ đó liền biến thành trung tâm, trọng điểm của Phật giáo.

Hòa thượng Hư Vân với phong thái của bậc long tượng, dẫn đầu phái đoàn rầm rộ đi ra khỏi nhà ga. Chẳng phải hôm nay chỉ có Thượng Hải trở thành trọng điểm của Phật giáo, sự thật là Phật giáo rất cần có Hòa thượng lãnh đạo, bốn chúng đệ tử còn cần Ngài hơn. Được đi theo, được tận hưởng ánh từ quang của Ngài tỏa ra che mát, tôi cảm thấy vô vàn hạnh phúc. Tôi tin chắc rằng các vị đại biểu cùng đi, những ai đang được gần Ngài, cũng có những cảm giác an lạc tương tự như tôi.

Hòa thượng Hư Vân được cung nghinh về chùa Ngọc Phật, Ngài lên Đại điện dâng hương rồi vào Phương trượng để bốn chúng đệ tử tham lễ, dù Ngài chỉ ban vài lời khai thị đơn sơ, song lại gieo cho tôi một ấn tượng chấn động rất sâu sắc.

Thực vậy, sau khi Ngài cho đông đảo tín đồ Thượng Hải gặp mặt – từ lâu họ đã rất khao khát được chiêm ngưỡng Ngài – nên cho dù chỉ được trông thấy Hòa thượng một lần, đủ để họ thấy lòng ngập tràn hân hoan, hỷ lạc. Điều này không khó hiểu và có thể cảm thông được. Hòa thượng từ bi đáp ứng nguyện vọng họ, đã ấn định dành riêng các ngày Thứ Hai, Thứ Ba, Thứ Năm mỗi tuần cho tiếp kiến quần chúng công khai tại chùa Ngọc Phật. Trong những ngày Hòa thượng tiếp tín đồ, hễ rảnh là tôi đến chiêm ngưỡng Ngài ngay… mỗi lần như thế, Ngài luôn để lại trong lòng tôi những ấn tượng khó quên.

Hòa thượng Hư Vân, vị Trưởng lão đạo cao đức trọng có vóc dáng cao, thanh gầy, đã hơn trăm tuổi rồi. Râu tóc Ngài bạc trắng, do không thường cạo nên dài ngót mấy tấc. chòm râu bạc phất phơ hiền hậu, hiện tướng Trưởng lão an nhiên, cái cốt cách đạo mạo thanh cao của Ngài nhìn có vẻ giống pho tượng Phật Tuyết sơn qua hình dáng một vị Tỳ kheo mà tôi từng được trông thấy. Có điều, Hòa thượng trông đầy đặn hơn.

Ngài nói giọng Hồ Nam trầm trầm, thoạt nghe tôi không hiểu rõ lắm, song tôi cảm nhận được âm lực mạnh mẽ, tinh thần sung mãn trong đó. Lời Ngài nghe rất thiết tha, bàng bạc lòng từ bi hỷ xả. Ngài khai thị cho hàng Phật tử không chấp vào thiên kiến, khéo tùy cơ giáo hoá làm lợi ích mọi người. Ngay cả lúc Ngài không nói gì vẫn tiềm tàng một sức cảm hóa vô hình cực mạnh, âm thầm khuyến khích, cổ vũ tiếp và thêm dũng khí cho người. Khiến người yếu đuối cảm thấy có thể trụ vững, kẻ càn bướng bỗng đổi thay tâm tư, chuyển thành liêm chính. Trong lúc khai thị hay chẳng khai thị, Hòa thượng thường khép mi nhìn xuống, tướng hảo uy nghi, nói nín động tịnh như hoàn toàn trụ trong định, khiến người trông thấy Ngài đều sinh lòng cung kính, khởi tâm hy hữu.

Mỗi lần trông thấy Ngài, tôi đều có cảm giác mình giống như con thơ gặp mẹ, thân tâm trở nên khinh an, không sợ sệt, tự tại an nhiên. Cảm giác này trước đây tôi chỉ có được khi lễ Phật. Nhưng bây giờ, tôi âm thầm nhận ra là – mỗi lần gặp Ngài là thêm một lần tôi được hạnh phúc, thêm một lần nội tâm an ổn. Hòa thượng lòng từ chứa chan, Ngài không bỏ sót một chúng sinh nào, điều này hiện rõ trong lúc Ngài tiếp chúng công khai. Có lần, khi đến chùa Ngọc Phật, tôi nhìn thấy Hòa thượng bị đám đông bao vây trước Đại điện và trên thềm Đan Trì, thiên hạ chen lấn, xô đẩy nhau như một dòng nước nghẽn, khó mà duy trì được trật tự. Vậy mà, ở giữa đám đông hỗn độn đó, Ngài vẫn an hòa, hiền lành thuyết pháp, bất động giữa bát phong, Ngài có một phong thái an nhiên mà tôi không tìm ra được từ ngữ chính xác để diễn tả. Song chứng kiến cảnh tượng này, ta có thể hình dung được tâm từ bi của Hòa thượng đã tỏa sức thu hút cực kỳ mãnh liệt. Ngay trong giây phút đó bản thân tôi cũng bị từ điển của Ngài lôi cuốn, tôi không kìm được cảm xúc, mắt dâng đầy lệ, lòng nao nao choáng ngợp vì tấm lòng yêu thương bao la, không bỏ một chúng sanh nào của Ngài.

Được gặp, được nhìn thấy Hòa thượng Hư Vân, cảm giác này thật kỳ diệu, giống như người uống nước, nóng lạnh tự biết, chứ diễn tả rất là khó, cho dù chỉ một từ. Ngài là một bậc cao đức, thông suốt cả Tông lẫn Giáo, điều này hiển nhiên không có gì phải nghi.

Trong buổi Lễ Kỷ Niệm lần thứ 12 ngày Đại sư Ấn Quang viên tịch, tại Phương Trượng Thất chùa Ngọc Phật, Hòa thượng đã khai thị cho hàng môn đệ của Pháp sư. Cũng giống như Pháp sư Ấn Quang, Ngài dạy mọi người phải dốc lòng niệm Phật, Ngài đã nhắc nhở như thế này:

“Niệm Phật phải liên tục như nước chảy trên dòng. Niệm niệm không đươc gián đoạn, nếu niệm được đến chỗ – nhất tâm bất loạn, tâm cảnh nhất như – thì đó chính là tham Thiền”.

Quả là một Thiền sư dạy người niệm Phật cự phách. Điều này cho thấy Ngài không vướng vào tông phái riêng nào mà luôn khéo dùng phương tiện giáo hóa. Ngài chỉ nói vài lời giản dị, song có thể đem cả đạo lý Thiền-Tịnh hợp nhất, diễn tả được chỗ viên dung vô ngại. Nếu không thông suốt Tông lẫn Giáo, khéo dung hợp các Tông, thì e khó được như thế, Ngài càng thuyết, càng khiến người nghe thêm ngưỡng mộ.

Nhiệt tình xây dựng Hòa bình của Hòa thượng cũng rất phi thường. Ngay trong ngày khai thị đầu tiên tại pháp hội, Hòa thượng đã không ngừng kêu gọi Phật giáo đồ nên tích cực đóng góp, dốc sức duy trì hòa bình trên thế giới. Ngài dạy: “Từ bi là giáo nghĩa của đạo Phật, chỉ hai chữ “Hòa Bình” thôi cũng đủ giải thích cụ thể. Vì vậy, Phật giáo đồ chúng ta phải có trách nhiệm gìn giữ và duy trì nền hòa bình trên thế giới”. Hòa thượng khéo léo đem Phật pháp ứng dụng vào đời như thế, quả rất hợp với lời Lục Tổ: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”, chân lý này đã được chứng minh.

Từ lâu, tôi hằng ngưỡng mộ Hòa thượng Hư Vân, luôn tiếc là không đủ duyên để gặp, lòng day dứt mãi. Bây giờ, Ngài đáp ứng lời thỉnh cầu của tín đồ Thượng Hải, đến đây hoằng pháp, khiến tôi có đủ phúc duyên được tận mắt chiêm ngưỡng Ngài nhiều lần, được tận tai lắng nghe viên âm Ngài, thỏa lòng khao khát, hạnh phức này thật không thể nói hết được…

Hòa thượng Hư Vân thân gánh vác gia nghiệp Như Lai, thực hiện lời ký thác tiếp nối huệ mạng Phật. Tôi thầm ước mong Ngài trụ thế vĩnh cửu để tiếp tục hoằng đạo, làm ngọn tháp đăng bất diệt cho tứ chúng đệ tử, làm thuyền từ phổ độ tất cả chúng sinh.

YẾT KIẾN ĐẠI SƯ HƯ VÂN

Tưởng Duy Kiều

Tôi là một ông lão tám mươi. Những năm gần đây, tôi gác hẳn việc đời, chuyên tâm tu niệm, lo dành dụm tư lương cho tâm nguyện vãng sinh nên không bước ra khỏi cửa. Chỉ khi nghe tin Thiền sư Hư Vân sắp đến, tôi mới nhớ lại 30 năm trước, khi Ngài đi giao dịch với Thương Vụ Ẩn Quán để in Tục Tạng Kinh, đã từng ghé qua nhà tôi. Từ đó đến nay, hiếm khi gặp lại. Hôm nay nhân cơ hội Ngài đến Thượng Hải, tôi rất muốn đến yết kiến và nghe Ngài khai thị.

Thứ Tư Ngày 10 tháng 12, sư Giác Phàm chùa Tĩnh An gọi điện thoại đến báo cho tôi hay là, 18g30 chiều thứ năm ngày 11, Hòa thượng sẽ đến Thượng Hải. Nghe tin, tôi rất mừng. Thế là trưa Thứ Sáu (ngày 12), tôi cùng cư sĩ Doãn Thạch đi đến chùa Ngọc Phật thì thấy Tăng, Ni Phật tử đã kéo đến đây có hơn năm, sáu ngàn. Trong chùa, người dự đông nghẹt, không còn chỗ chen chân. 11 giờ trưa, chúng tôi được vào yết kiến Hòa thượng. Mới vừa ngồi xuống định mở miệng thưa hỏi thì bên ngoài đã có người đến mời dùng cơm Cư sĩ Triệu Phác Sơ nhất định giữ tôi ở lại hầu cơm Hòa thượng. Thầy Trụ trì Vi Phang làm chủ nhân, ngoài ra còn có các Lão Sư như Trì Tùng, Diệu Chân, Thanh Định, Tục Khả và 81 vị cư sĩ tuổi hạc khá cao mà hơn 10 năm nay tôi chưa từng gặp mặt. Thật là “Chư Thượng thiện nhân câu hội nhất xứ”, vui sướng phi thường. Trong lúc dùng cơm, vì Hòa thượng không nói nên mọi người đều im lặng. Đến 2 giờ trưa, Hòa thượng thăng tòa, hướng về đại chúng khai thị. Chúng tôi vì bận việc nên phải trở về nhà.

Mấy ngày sau, cư sĩ Triệu Phác Sơ đến, tôi ngỏ ý muốn yết kiến Hòa thượng. Ông ta kể rằng mấy bữa nay Hòa thượng do tiếp khách quá nhiều nên rất mệt. Ông sợ Ngài đổ bệnh nên cho mời thầy thuốc đến bắt mạch. Thầy thuốc nói Ngài hoàn toàn không có bệnh gì, còn khen rằng cả đời ông chưa bao giờ bắt được ai có loại mạch thuần dương như Ngài. Phác Sơ còn nói: “Răng của Hòa thượng rụng xong thì mọc tiếp, đã mọc được 6 cái mới rồi, thật lạ quá!”.

Trưa ngày 29, tôi gọi điện hỏi thăm sư Viễn Trần xem Hòa thượng có khỏe không? Ông ta đáp: Khỏe. Tôi ngỏ ý muốn đến thăm, ông bảo: -Được. Thế là tôi vội vã đến yết kiến Hòa thượng và thưa:

– Ba mươi năm trước, trong dịp đi in Tục Tạng Kinh, Hòa thượng có ghé nhà con, không biết Ngài còn nhớ không?

– Nhớ chứ! Cư sĩ hoằng pháp lợi sinh công đức thật vô lượng!

Tôi thưa:

– Con thật hổ thẹn quá. Bạch Hòa thượng, chùa Vân Môn gần đây ra sao?

– Tình hình xấu lắm, trong chùa chỉ còn khoảng 60 sư, khai khẩn đất hoang, chịu cực khổ mà sống qua ngày.

– Bạch Hòa thượng, còn chùa Nam Hoa ra sao?

– Còn tệ hơn nữa, trong chùa có binh sĩ trấn đóng, hiện chỉ còn vài thầy ở đó.

– Hòa thượng ở lại đây có lâu không ạ?

– Khi pháp hội viên mãn, Tôi sẽ rời nơi đây, vì chốn này quá ồn náo.

Tôi định trình công phu, xin Hòa thượng vài câu khai thị nhưng do thấy ngoài thất còn rất nhiều người muốn vào tham bái nên đành cáo biệt ra về.

THƯ GỞI ĐẠI SƯ HƯ VÂN

Cao Hạc Niên

Hư công Đại đức pháp giám!

Từ lúc chia tay cáo biệt ở Nhật Giang, sáng nay mới được tương phùng nơi Lục Địa. buồn vui lẫn lộn. 20 năm trôi qua trong nháy mắt. Sự mau lẹ của thời gian thật đáng sợ. Lẽ ra phải gặp nhau để nói ba điều bốn chuyện về cuộc tang thương, nhưng vì tuổi Ngài đã cao, đi đường lao nhọc. Gặp lúc Pháp hội mới khai, hải chúng đổ về quy ngưỡng, Ngài hiện đại oai đức, đem thẩn lực để cảm hóa chúng sanh, ngũ dục không thể trói, khóa danh lợi không thể buộc, thật khó mà nghĩ lường được diệu hạnh của Ngài.

Kẻ đáng thẹn này nghiệp cũ chưa tiêu, ân Phật chưa báo, tham cứu chưa thấu triệt, học chưa đạt thành, thấy cảnh thì bị vật chuyển, ở trong cảnh huyễn hóa tìm kế sống, chưa được sự thọ dụng chân thật. Mấy chục năm phiêu du vân thủy, vạch cỏ tìm gió, ngụ các nhà trong xóm làng chẳng tránh được những trận phong vũ đắng cay. Trên ngọn núi cao trăm nhẫn, nào sợ đội nguyệt mang sao, nghịch thuận bất thối, kiên định chẳng lùi bước. Chỉ vì việc lớn sinh tử, vô thường mau chóng, đến nay vẫn chưa nắm chắc. Thật vô cùng hổ thẹn!

Kính mong Ngài dùng định quang soi sáng, hùng lực nâng đỡ, khiến tôi vượt thoát bể khổ, chẳng bị khổ luân hồi trong bát nạn tam đồ.

Kính dâng lời tụng:

Phật quang chiếu sáng Lợi khắp trời người.

Kẻ học nhân đáng thẹn Cao Hạc Niên kính lễ.

Thư viết tại thảo am Đại Giác, ngày Nguyên Đán năm Quý Tỵ.

TẤM GƯƠNG MẪU MỰC

Ôn Quang Hy

“Hư không nguyên bất động, mây trắng tự đến đi”.

Hòa thượng Hư Vân tóc vàng lụm cụm, cỡi mây đến đất Hỗ. Kẻ biết làm báo thì đăng lên Chuyên san cho người cùng xem. Còn tôi cũng mượn lời văn gửi gắm. Tự thẹn mình biếng lười, đã ít nghe pháp lại chẳng hiểu Thiền, nào dám khua môi múa lưỡi.

Thôi thì, tạm đem ba cái kiến giải hạn hẹp, đại khái nêu lên mấy điều:

  1. Ngôn giáo cần khế cơ, như thuốc không quý tiện, chữa lành bệnh là tốt. Pháp không cao thấp, hợp căn cơ là quí. Tâm bình thường là đạo. Một tiếng hét của Mã Tổ ba ngày còn điếc tai. Các điều ác chớ tạo, các điều thiện vâng làm. Chư vị thánh hiền ở thế gian hay xuất thế gian đều nói lời bình thường chân thật không lời nào mà không hữu ích, không lời nào mà không quí giá và thiết thực, hợp lý lẽ trời đất. Ngài Ô Sào nói:

Tam tuế tiểu nhi giai đương tri Bát thập lão ông tạo bất đáo.

Con nít ba tuổi đều biết hết Ông lão tám mươi làm chẳng nổi.

Đi đến chỗ tầm thường vẫn thấy được chân diện mục. Ngài Liên Trì nói:

Cổ, cầm bất hội án Bình đàm, bình đàm, phục bình đàm.

Trống, đàn không hiểu công án Bình thường, bình thường, lại bình thường

Lông mày của Hòa thượng Hư Vân rơi xuống đất, rộng tiếp các nơi, lời nói bình thường không có gì lạ chính là phong độ của bậc Đại nhân. Trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, Ngài đã từng qua Trùng Khánh, chủ trì Đạo Tràng Thủy Lục ở chùa Từ Vân. Phàm có người đến qui y, đa số Ngài đều khuyên họ niệm Phật. Ngài cho in tượng Phật Di Đà và quyển sổ công đức nhỏ, dặn Phật tử niệm Phật hễ đủ 1000 câu thì châm vào một điểm để nhớ số, lấy đó làm công khóa. Nhờ phương tiện này, Ngài hóa độ rất nhiều người. Một cái bình thường này, trùm khắp ba căn.

Nay Ngài đến Thượng Hải khai thị, ân cần khuyên bảo, thiết tha nhắc nhở hai tông Thiền, Tịnh không nên bài bác lẫn nhau. Ngài giải thích Triệu Châu từng thốt: “Niệm Phật một câu súc miệng ba ngày” chỉ là lời nói đối cơ. Vì sau đó có người hỏi Triệu Châu: “Thầy của Hòa thượng là ai?” Triệu Châu đã đáp: -“Là mười phương chư Phật!” – “Vậy thầy của mười phương chư Phật là ai?” – Ngài Triệu Châu trả lời: – “Là Phật A Di Đà!” – Phật A Di Đà do đích thân Như Lai vì một đại sự nhân duyên tuyên thuyết, hai pháp môn Thiền, Tịnh là tùy cơ dạy bảo. Cõi Tây Phương Tịnh Độ quả thật trang nghiêm, công đức cao tột, ưu mỹ tuyệt vời. Bước chân của ngài Hư Vân từng ra tử vào sinh nên biết rất rõ trong đây là đắng hay ngọt. Ngài tùy cơ nhiếp chúng, dìu dắt kẻ mê, nào phải lời thiển cận? Người đời sau cần phải hiểu cho rõ, thấy biết phân minh.

  1. Bước đến chỗ chân thật, nếu luận về việc trong tông môn thì vốn không có ngôn thuyết để tìm, song về công hạnh thì có thể chọn, cần nhất mắt phải sáng tỏ. Ngài Hư Vân khai thị: “Quan trọng là phải chân thật tham cứu”, trong nẻo tắt này, không có chỗ để bàn luận. Nên biết phải ngay đây lãnh hội, rất kỵ sùi bọt mép cãi lý, nếu có chút dại dột, lầm mê, là đất trời đã xa cách. Dụng công tối kỵ muốn mau, muốn mau tức là tâm trộm. Chỉ cần chẳng đánh mất dụng công căn bản (bổn tham), nếu không ngộ thì cũng liễu sanh tử. Cho nên nói: “Trụ Phật tánh thì sinh trong nhà Phật pháp”. Chẳng hỏi ông ngộ hay chưa ngộ? Chỉ hỏi ông có dụng công hay chưa dụng công? Từ xưa, trong tông môn chỉ quí dụng công căn bản, tốt là ở chỗ này. ”

Công hạnh của ngài Hư Vân ấn tàng bên trong, kẻ ngu khờ như chúng ta chẳng thể nào biêt đến được. Chỉ nghe qua những lời sơ lược của Ngài cũng đủ ước lường mức độ vĩ đại. Ngài hành đạo tha thiết, phát tâm chân chánh, một niệm muôn năm. trước sau hoàn toàn không phóng dật. Cho nên khổ tận thì cam lai, nắm được lỗ mũi Tổ sư.

  1. Thượng hoằng hạ hóa, người tham thiền sau khi đã phát minh tâm địa, tự mình được lợi, còn phải lợi tha. Pháp lợi tha tuy nhiều nhưng chẳng qua là bổn phận của người tu: Khai Tùng lâm, lập Đạo tràng, trên hoằng dương Phật pháp, dưới hóa độ chúng sanh. Bởi vậy mới nói:

Nguyện tương Đông độ tam thiên giới Tận chủng Tây Phương cửu phẩm liên.

Nguyện đem ba nghìn cõi Đông Độ Gieo vào chín phẩm sen Tây Phương

Tại Trung Hoa, từ đời Đường trở về sau, Mã Tổ mở lò luyện lớn, sản sinh toàn hàng long tượng. Từ Triệu Châu trở đi, việc chính của Tùng lâm là tọa hương; cây hương chốn Tùng lâm, trên liên quan đến pháp thân của chư Phật, dưới quan hệ đến huệ mạng chúng sinh, khuôn phép quy cũ ngàn xưa muôn đời bất hủ. Kê Túc ở tỉnh Điền, Lãnh Nam Tào Khê, Vân Môn… Các Đạo tràng này đều là Tổ đình của Thiền Tông Trung Hoa. Khi ngài Hư Vân đến thì chỗ chỗ được trùng hưng. Pháp tọa hương đả thất ngang với Kim Sơn, Cao Mân, vùng Giang Nam, công đức thù thắng không nói hết được.

Kể sơ ba điều quan trọng, khó lường được chỗ cao thâm. Ngài Hư Vân nghiêm trì luật hạnh, tuổi già vẫn giữ thọ trai, áo vá cơm khô, khắt khe với bản thân nhưng đối với người rất hậu. Ngài mỏ’ núi phá rừng; nhóm lửa, cấy cày, làm việc lam lũ, nhẫn nhục chịu đựng biết bao cay đắng… những việc này mọi người đều biết, không cần kể nhiều. Nhờ nội lực hàm dưỡng thâm hậu nên có thể khắc với mình mà khoan với người. Mọi tính toan dứt sạch, đến được chỗ chân thật. Nhờ vậy mà lò lửa hóa sen xanh, từ dung điềm tĩnh, sắc Ngài rạng rỡ, đức Ngài cao ngất.

Phàm những ai thật lòng tôn kính Hòa thượng Hư Vân, noi học theo đó – Hãy cất bước từ chỗ tầm thường, rồi sau mới nói đến việc tu đạo hoằng pháp.

NÉN HƯƠNG TỪ BI TÂM NGUYỆN

Đại Chiếu

Hòa thượng Hư Vân từ Vân Môn đến Thượng Hải, tứ chúng từ lâu hằng kính mộ cao phong, kéo nhau đi đón chật đường. Họ tụ tập trước chùa Ngọc Phật để chiêm ngưỡng Ngài, mỗi ngày có đến hàng ngàn người, có thể nói là thịnh tình cực kỳ nồng hậu.

Sư râu tóc đều bạc, sắc diện từ hòa, những ai từng được gặp Ngài, thảy đều xúc động. Dù Ngài chưa thốt ra lời dạy bảo nào song đã gieo cảm xúc sâu sắc, chấn động lòng người. Sư thay thế cho các bậc thạc đức của Thiền tông, giới hạnh tinh nghiêm, chỉ thường khoác một áo chắp, cư xử khiêm hạ ôn hòa, không ai có thể sánh bì.

Đôi với các vị cầu đạo đến tham lễ, Sư đều đảnh lễ đáp lại. Tứ chúng sợ Sư tuổi cao mỏi mệt, thảy đều bảo nhỏ nhau: “Nếu vào yết kiến Ngài, chỉ nên vái chào vấn an mà thôi”.

Sư chủ trì pháp hội chùa Ngọc Phật, thường nhắc nhở chúng: “Học Phật cần phải lấy việc mình tâm kiến tánh làm gốc, lấy đoạn ác tu thiện làm hạnh. Phải biết Phật tâm không khác, chúng sinh đồng một thể. Vì vậy những việc sát sanh ăn thịt, muôn vạn lần không nên”.

Một hôm, có vị cư sĩ đến yết kiến Sư, hỏi:

– Bạch thầy, đệ tử có căn lành chăng?

– Ông nếu không có căn lành thì đâu được đến đây.

– Vậy tương lai đệ tử có thể thành Phật chăng?

– Tất cả chúng sinh rốt ráo đều có thể thành Phật, ông cũng vậy.

Cư sĩ hoan hỷ lễ tạ. Sư hỏi:

– Ông có ăn chay trường không?

– Thưa, chưa ạ.

– Người ăn thịt chúng sinh là đoạn hạt giống đại bi, từ đây về sau ông hãy cố gắng ăn chay trường, vậy mới có thể cùng Phật pháp tương ưng.

Cư sĩ hoan hỷ tín nhận lui về.

Mỗi khi có người đến thỉnh dạy pháp yếu. Sư đều tùy cơ khai thị, bảo ban xong thì bao giờ cũng ôn tồn khuyên họ nên bỏ thịt ăn chay. Ôi! Sư đối với chúng sinh thực là đồng thể đại bi, đã thấy được lẽ chánh chân, hành đến chỗ rốt ráo. nếu luận về Tông môn thì chẳng cần phải bàn thêm. Nhớ hồi tôi mới bắt đầu học Phật, chỉ để tâm nghiên cứu ý nghĩa sâu xa, riêng đôi với chuyện trường trai cũng không thực hành nghiêm cẩn lắm. Tuy tôi có kiên trì giữ giới không sát sanh, nhưng chuyện ăn uống tôi cứ tùy duyên mà hưởng dụng, cứ đinh ninh mình không nhất thiết phải ăn chay trường làm chi. Lần này gặp Đại sư, được Ngài nhắc nhở:

– Người tu hạnh Đại thừa, phải phát tâm Bồ-đề, nhờ tâm Bồ-đề mà thành chánh đẳng chánh giác. Tôi từng nghe chư Bồ-tát khi đã phát tâm Bồ-đề, kiếp kiếp, đời đời thường hành Bồ-tát đạo, đến nỗi tự xả bỏ đầu mắt, tay chân của mình bố thí chúng sinh, chớ chưa từng nghe kể có vị Bồ-tát nào ăn thịt chúng sinh cho mập cả. Ông phải biết ăn thịt chúng sinh là tự đoạn mất hạt giống đại bỉ. Cho nên, đối với ba thứ tịnh nhục, Phật cũng không cho dùng (như trong Kinh Lăng Nghiêm đã tả) là một bằng chứng.

Ngài đã trang trọng giải thích nhắc nhở kỹ càng, tôi nghe qua như được ấn chứng. Thầm thệ rằng từ đây về sau không bao giờ ăn mặn nữa.

Các bậc tôn túc công hạnh chói sáng, tuy đã chứng đắc song vẫn hết sức cẩn thận. So với hạng Sa-môn tầm thường thô tháo, chỉ biết chấp lý tự cao, viện đủ lý do để biện hộ tha thứ cho mình, thật là nông nổi, đáng tiếc. Không khéo còn mắc bệnh chấp không trầm trọng.

09

CÁNH BÈ TRONG CƠN ĐẠI HỒNG THỦY CỦA ĐẠI SƯ HƯ VÂN

Lưu Chiêm Minh

Hàng long tượng trong tông môn, sau khi hai vị thầy chúng ta là Thiền sư là Thiên Ninh Dã Công và Dung Thông Ngọc Trụ nhập diệt rồi thì bậc Thiện tri thức thật sự vắng bóng như sao buổi sớm, chỉ riêng đạo phong của Đại sư Hư Vân là danh vang thiên hạ. Mùa thu năm Bính Tý, tôi đến Thượng Hải thăm cư sĩ Giang Vị Nông ở Tĩnh Tâm Liên Xã. Cư sĩ là một người thông Giáo lẫn Thiền, mới chú giải Kinh Kim Cang, hoằng dương Bát Nhã. Khi nhận xét về các bậc Kỳ lão tôn túc trong Thiền tông gần đây, đã nói:

– Các vị ẩn tu trong núi rừng chẳng cần ai biết đến, người cũng khó mà biết được. Điều này chẳng cần bàn làm gì. Nhưng việc các vị trong Tông môn tự truyền nhau, thấy biết tạp nhạp, thường rơi vào phe phái, bảo thủ, thiên kiến chấp không… Tuy có nhiều đồ chúng, danh đồn một thời, cũng chẳng đáng trọng. Theo tôi biết, người có khả năng chân tham thật ngộ, hạnh giải tương ưng, không hổ là con mắt của trời người… thì chỉ có Thiền sư Hư Vân là xứng đáng.

Vài ngày sau, tôi có việc đến Ngô Môn, thăm Thầy bổn sư Ấn Quang tại chùa Báo Quốc, Ngài cũng nhận xét: “Hòa thượng Hư Vân là một bậc cao tăng, tu hành chân chánh” Tôi nghe, càng thêm quí kính, rất muốn đi về Nam để bái kiến Ngài, nhưng chốn trần lao còn nhiều công việc bề bộn buộc trói, chưa có thì giờ rảnh.

Mùa hạ năm nay, cư sĩ Đường Huệ Tuấn nghe tin Đại sư từ Nhũ Nguyên bay sang Hán Cao, có gởi thư mời tôi đến thăm Ngài, tôi sắp sửa lên đường thì hay tin Đại sư đến Bắc Kinh. Duyên lành hội đủ, phật giáo đồ Thượng Hải mở Hội cầu nguyện thế giới hòa bình, khai Đạo Tràng Thủy Lục và tổ chức giảng thuyết tại chùa Ngọc Phật, rước Đại sư về chủ trì Pháp hội. Tôi cùng Huệ Tuấn nhờ vậy mới có dịp đến tham lễ Ngài.

Đại Sư vóc dáng thanh gầy, nhìn rất có thần, lời nói giản dị song lại thâm thúy khiến người nghe có cảm giác như được tiếp xúc với bậc cố đức mẫu mực. Sư đã 113 tuổi nhưng vẫn không nề mệt nhọc, xông pha sương tuyết, vượt mấy ngàn cây số đến đây làm chủ Pháp hội. Dùng bi nguyện sâu rộng hộ trì, nguyện cho tất cả chúng sinh đồng thoát khỏi tai chướng. Gió từ bủa đến tận những chốn xa xôi, xua tan ác khí nơi trần thế. Nhân lành quả tốt, gặp được Ngài là rất hi hữu nên dân Thượng Hải xôn xao báo tin cho nhau, rất là nhộn nhịp. Người tìm đến yết kiến, chiêm ngưỡng mỗi ngày có tới mấy ngàn. Được nghe một lời của Đại sư, chẳng ai mà không hoan hỷ vui mừng, cảm giác như được điều chưa từng có. Bạn tôi là Pháp sư Huệ Chương – Vị đệ tử đã vào cửa của Đại sư, từng nói với tôi rằng:

– Đại sư đã phát minh tâm địa, ẩn tu tại Chung Nam, mỗi lần nhập định cả tháng mới xuất. Trong lúc tĩnh tọa, áo rách cỏ phủ, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, mấy chục năm cũng như một ngày. Khi gặp các danh lam trong nước bị hoang phế thì đứng ra lo việc trùng tu, đích thân làm mọi việc lao dịch, xây dựng xong thì giao lại cho chư Tăng làm chủ, điềm nhiên ra đi. Cứ thế, không biết Ngài đã trùng tu bao nhiêu ngôi Đạo tràng rồi. Ngài dìu dắt tiếp dẫn người sau, một mình đề xướng, chấn chỉnh… chẳng nhờ cậy ai. Ngài tuỳ căn cơ, tuỳ hoàn cảnh mỗi người mà quyền biến khai thị nhằm giúp ích và thức tỉnh họ. Khi thầy Huệ Chương ở Vân Môn, ngày nọ trong lúc cùng thọ trai và hầu cơm Ngài, Đai sư cầm đũa lên hỏi:

– Phân biệt ngon dở là phàm phu, chẳng biết thơm thúi là cây đá, lìa hai thiên chấp đó, nói một câu xem!

Mọi người đều lặng thinh.

Hôm khác, Sư sắp xuống núi, có vị Xà-lê nhắc nhở:

– Đường xấu mà trời lại không có trăng, tuổi đã khá cao, xin Thầy hãy cầm đèn đi cho khỏi té!

Đai sư cười nói:

– Sáng tỏ rỗng rang, trùm khắp pháp giới hà sa. Ông bảo chỗ nào tối tăm?

Rồi Ngài phất áo ra đi, ai cũng le lưỡi. Những việc như thế không thể kể hết được. Sư thuyết pháp mấy chục năm, dung thông tánh tướng, vào cửa bất nhị, không còn mảy may thiên chấp.

Nếu có người đến tham học, Sư thử dạy Thiền trước, thấy không khế hội thì dạy niệm Phật Tam muội. Ở chùa Nam Hoa, ngoài Thiền Đường ra, Sư còn lập Niệm Phật Đường cho những người chuyên tu Tịnh Độ. Đặc biệt, chung quanh tờ Phái Qui Y của Sư đều có in những vòng tròn nhỏ, ghi chú rõ ràng: “Nếu niệm Phật được một ngàn câu thì điểm vào vòng một chấm đen. Niệm được một trăm ngàn câu thì ghi chấm đỏ”. Ngài thường nói:

– Thiền tông tuy “nhất siêu trực nhập” (vào thẳng siêu xuất) song không phải bậc thượng căn lợi trí thì khó mà thực hành. Chúng sinh thời mạt pháp, chướng nhiều huê ít, chỉ cần nương vào pháp môn niệm Phật cũng có thể liễu sinh tử, vãng sanh về cõi Cực Lạc. Người sơ cơ thì thấy Tịnh với Thiền là hai, nhưng khi tu thành rồi thì hai mà chẳng phải hai. Vì niệm Phật bắt buộc phải nhiếp tâm: từng câu chân thật, niệm niệm tương ưng, lâu ngày thành một phiến. Do sự nhất tâm nên lý cũng nhất tâm, năng sở đều quên, mình người chẳng hai thì cùng với tham Thiền đâu có gì sai biệt? Bởi vậy Kinh nói: “Nếu người chỉ niệm A Di Đà, chính là Thiền vi diệu vô thượng”. Đại sư Trung Phong nói: “Thiền tức là Thiền của Tịnh Độ. Tịnh Độ là quốc độ của Thiền. Những kẻ niệm Phật đầu môi, tham Thiền nơi chót lưỡi thảy đều là kẻ tự dối mình. Gặp cửa ải sinh tử làm sao thoát đây?”

Mọi người nghe nói đều giật mình.

Cư sĩ Đường Huệ Tuấn cùng với Đại sư đồng có duyên thờ phụng, đây chẳng phải là chuyện ngẫu nhiên. Nguyên trước kia, ông Quân Tàng ở Thượng Hải có một bản Kinh Lăng Già Chú do chính tay ngài Hám Sơn Đức Thanh chép (phỏng theo bản đời Tống). Đây là bản Kinh độc nhất trong nước, ông ta muốn nhượng lại cho người khác. Huệ Tuấn hay tin, sợ Kinh bị rơi vào tay bọn con buôn sẽ bị thất lạc nên bỏ tiền mua lại. Vì Kinh này là (Pháp ấn truyền tâm của Sơ Tổ), một kiệt tác của ngài Hám Sơn lúc đương thời, nếu không gặp bạn tri âm (không gặp đúng người biết đến) thì làm sao mà hoằng dương? Do vậy mà Huệ Tuấn mới gởi tặng bản kinh này cho Đại sư (lúc đó đang ở Vân Môn) để làm báu vật trân sơn ở Nam Hoa. Vào thời điểm Đại sư lâm nạn rồi bị bệnh nặng, trong cảnh khổn ách đó Ngài đã đem kinh này ra nghiên cứu thật kỹ, vô biên phiền não liền được thanh lương, Ngài cúi đầu xúc cảm, tán thán hồi lâu.

Lúc ngài Hám Sơn chú giải Kinh này là năm Vạn Lịch thứ 28 (1590). Khi Trung Quí bắt giam Ngài vì tội mở rộng chùa viện, cấm mặc áo tu và đày Ngài đến Lôi Châu. Đến đây, Ngài dựng Thiền Đường trong Bích Lũy, đội khăn thuyết pháp, phát nguyện chú giải kinh thoát ngoài chương cú, chỉ thẳng nguồn tâm. Tới năm sau mới chép xong và được vua cho phép khoác Tăng phục trở lại. Đến Nam Thiều, Ông Đạo Chúc mời Ngài đến ở Tổ đình Tào Khê. Ngài bèn gánh Kinh sang đó, cho in và lưu hành. Tính đến nay đã hơn 380 năm. Duyên xưa gặp lại, hai vị đồng ở vào thời chúng sanh khổ, khi liễu khổ thì không còn khổ. Một người chú giải, một người đọc. Lạc bang là cõi kham nhẫn. Hai cụ già nhìn nhau mà cười. Không trái bản tâm, pháp duyên thầm khế hội, thật là bất khả tư nghi. Ngày khác hoằng dương Kinh này, chẳng là Ngài thì còn ai vào đây nữa?

TÔI BỊ ĂN GẬY CỦA HÒA THƯỢNG HƯ VÂN

Khai Nhãn

Lần này giới Phật giáo Thương Hải mở Đại hội cầu nguyện nhân dân thế giới hòa bình. Đàn tràng được cử hành trọng thể tại chùa Ngọc Phật kéo dài suốt 49 ngày. Đây là một Pháp hội có tầm cỡ, long trọng nhất tại Thượng Hải trong những năm gần đây. Đặc biệt lần này, Pháp hội cung thỉnh vị cao tăng đệ nhất của Trung Quốc – Hòa thượng Hư Vân – Ngài đã được 113 tuổi, từ Bắc Kinh đến Thượng Hải chủ trì Pháp hội. Sau khi Tân Văn Nhật Báo và Đại Công Báo đăng tin này rồi, không những kêu gọi toàn thể Phật giáo đồ Thượng Hải đến tham dự Pháp hội mà còn ca ngợi đạo đức của Hòa thượng Hư Vân, vì tứ chúng Phật giáo dốc hết lòng thành ủng hộ. Ngoại trừ Pháp Hội Tiêu Tai năm Bính Tý do Đại sư Ấn Quang đến đất Hổ chủ trì, đây là lần thứ hai, để tiếp kiến quần chúng Hòa thượng Hư Vân đặc biệt ấn định vào 9 giờ sáng các ngày chủ nhật, thứ ba, thứ năm, là sẽ ra trước Đại điện cho quần chúng thấy mặt một lần. Vào những ngày này, ngay từ 8 giờ sáng thì ở trước Đại điện đã có mấy ngàn người đứng đợi, chực sẵn, đủ các giới: Sĩ, nông, công, thương: già, trẻ, lớn bé – phụ nữ, thanh niên, nhi đồng – ai cũng tha thiết chân thành, khát khao được chiêm ngưỡng Hòa thượng Hư Vân. Khi Hòa thượng từ Đại điện bước ra thì tiếng vỗ tay vang lên như sấm, thể hiện niềm ái kính và thịnh tình quần chúng dành cho Ngài rất nồng hậu.

Lời khai thị của Hòa thượng đơn giản mà thiết yếu, Ngài nói với mọi người:

– Các điều ác chớ làm, các điều thiện vâng làm, dốc lòng niệm Phật, bảo vệ Hòa bình.

Mọi người nghe xong, đều cảm thấy hân hoan, vinh hạnh vô hạn. Mỗi ngày, số người sắp hàng ghi danh xin quy y có đến cả vạn. Đạo đức của Hòa thượng Hư Vân cảm hoá lòng người thật sâu, chẳng những Phật giáo gieo ảnh hưởng tốt lành mà Pháp hội còn kêu gọi mọi người hãy góp sức gìn giữ Hòa bình. Đây là điều không thể nghĩ lường.

Lúc 2 giờ chiều, ngày 12 tháng 12, tôi đến nghe Hòa thượng Hư Vân khai thi. Ngài nói tiếng Hồ Nam, Quảng Đông, giọng trầm trầm nhỏ nhẹ, âm thanh vang vọng trong pháp đường rộng mênh mông. Tôi như chìm trong biển người đến dự pháp hội, lặng lẽ lắng nghe và chiêm ngưỡng phong thái từ hòa, tao nhã của Hòa thượng. Tất cả trần niệm trong lòng tôi như được quét sạch. Tâm tư mở sáng rỗng rang. Nhờ vậy mà tôi dễ dàng thể hội, thấm thìa sâu sắc thời pháp Ngài khai thị. Nghe đến đoạn Ngài giảng về Tịnh độ, chẳng phải chỉ riêng mình tôi các mối lo trong lòng đều tan biến mà các pháp hữu quanh đây cũng được mở sáng, càng có thêm nhận thức đúng đắn về đường lối tu – vì tất cả đã được Ngài chỉ bảo, giải thích cặn kẽ rõ ràng. Hòa thượng dạy:

– Ngày nay, người tham thiền đa số đều không biết rằng Thiền, Tịnh chẳng phải là hai pháp môn. Mỗi khi chê Tịnh độ là Tiểu thừa tức là đã có nhận thức sai lầm rồi. Công phu tu vào cửa Thiền, Tịnh tuy chẳng đồng, nhưng đích đến lại là một – Có người chỉ biết thiền Sư Triệu Châu nói câu: “Niệm Phật một tiếng phải súc miệng ba ngày”… hay: “Một chữ Phật tôi không muốn nghe!”… họ liền chấp chặt vào đó mà hoàn toàn không hiểu câu nói này thuộc về dạng đối cơ (tùy cơ tùy duyên mà thuyết), rồi cứ vin vào đây mà phản đối niệm Phật. Như vậy là hiểu lầm quá mức. Chư vị cần biết, ngoài các câu nói này, ngài Triệu Châu còn các câu đối cơ khác. Chẳng hạn như có người hỏi Triệu Châu:

– Thầy của Hòa thượng là ai?

– Mười phương chư Phật.

– Thầy của mười phương chư Phật là ai?

– Phật A Di Đà.

Đủ thấy Phật A Di Đà chính là Thầy của mười phương chư Phật. Ngày nay, người tham Thiền không hiểu rõ câu nói đối cơ trước của Thiền sư Triệu Châu, đồng thời cũng không hiểu câu đối cơ sau của Ngài. Người tham Thiền cứ dùng câu nói trước của ngài Triệu Châu mà chê pháp môn niệm Phật, thật oan uổng cho ngài Triệu Châu! Giả Sử người đó bây giờ mà gặp Triệu Châu, thế nào cũng bị Ngài cho ăn gậy.

– Chư Phật tử! Muốn thỉnh được Thầy của mười phương chư Phật thì hãy chí thành khẩn thiết niệm Phật A Di Đà đi!

Tôi nghe đến câu này, cảm giác như mình vừa bị ăn gậy, các tạp niệm lăng xăng sáng ba chiều bốn của tôi ngay đây liền được thống nhất. Tuân theo lời khai thị từ bi của của Hòa thượng, tôi quyết định chọn pháp môn Tịnh độ thực hành chuyên chú và nguyện dùng pháp này làm pháp, duy nhất để độ mình và độ người.

HÒA THƯỢNG HƯ VÂN VÀ THƠ CỦA NGÀI

Duy Ma

Trong lịch sử thơ văn của Trung Quốc, các thi nhân có thể sống lâu đến tám, chín mươi tuổi nhưng sống trên 110 tuổi mà vẫn khang kiện thì thật hy hữu. Ngài Hư Vân từ trẻ tới già, sống khéo buông xả, trong khổ hạnh vẫn hỷ lạc, suốt đời lấy việc thờ Phật làm vinh, sống trăm năm như một ngày, tính ra trong lịch sử cao tăng Trung Quốc quả là hiếm có.

Ngài dạo thăm khắp danh sơn Trung Quốc, xuống miền Tây thì vào Khương, Tạng, lên núi Hy Mã, triều lễ năm nước Ân Độ, qua quần đảo Nam Dương… chuyến lữ hành cả đời sư, tính ra tương đương với đoạn đường du hành của ba vị: Pháp Hiển (đời Tấn), Huyền Trang (đời Đường), Từ Hà Khách (đời Minh).

Nguyện lực của Hòa thượng cao tột, học lực của Ngài cũng vô bờ. Căn cứ vào Pháp ngữ và thi kệ của Ngài do Sầm Học Lữ biên tập, tổng cộng số thi, kệ có khoảng 390 bài. Trong đây, nhiều nhất là thơ Thất Ngôn, kế đến là Ngũ Ngôn. Kệ tán Ngài thường làm theo lối Tam Ngôn hoặc Tứ Ngôn. Bài tụng cổ “Thủy Điểu Thọ Lâm Thường Thuyết Pháp” được làm theo thể Thất luật, gieo vận dùng chữ Vô, nhiều đến 23 bài.

Đời Tấn, chúng ta có Huệ Viễn, Trầm Đức Tiềm là những vị sáng tác thơ thanh nhã mà sâu xa. Đời Tống, chúng ta có Thanh Huệ Hưu là người thuộc cửa Thiền nhưng lời thơ lại tình cảm, uyển chuyển nhẹ nhàng, thâm diệu – chính từ những tứ thơ này đã sản sinh ra những dòng thơ như Tô Mạn Thù. Còn thể thơ Kiểu Nhiên, Tề Kỷ… đời Đường đều cách cổ chưa xa, gộp thành một nhóm, xuất ngữ siêu thoát, hoàn toàn không có hơi hướng tập Thiền. Đây là những điều rất đáng quí. Nếu dựa vào cơ sở trên mà nhận xét thì thơ của Hòa thượng Hư Vân thuộc hạng Thượng phẩm, thơ Ngài rất nhiều, khó mà biên lục hết. Để giúp bạn đọc thưởng thức và hiểu được công phu chân thật của Hòa thượng, tôi không ngại đưa ra vài bài tiêu biểu như:

Tạp tải tha hương khách Nhất trúc1 cố quốc xuân Hàn yên lung tế vũ Sơ trúc bạn u nhân Sạ kiến nghi vi mộng Thâm đàm giác bội thân Khả kham lương dạ nguyệt Nhứ nhứ thoại tiển nhân.

Tạm dịch:

Ba mươi năm tha hương Đã thành xuân cố quốc Khói lạnh lòng mưa sương U nhân bạn trúc thường Gặp nhau ngỡ lá mộng Trò chuyện càng thêm thân Thâu đêm trăng thanh mát Nhắc mãi chuyện tiên nhân

Bài này Hòa thượng sáng tác khi trở về Cổ Sơn gặp Sư Cổ Nguyệt, trong đây tình người thật nồng hậu. Có vẻ như từ thời Tống trước và từ thời Đường trở về sau hình như chưa ai vượt qua tứ thơ này.

Thơ Ngũ Ngôn xưa nay rất khó viết, trong tập thơ của Ngài, rốt ráo có hơn 80 bài cũng gần như là thơ của Lâm Bổ và Tương Bá Trọng. Chẳng hạn như bài thơ Ngũ ngôn “Sơn cư’, phong thái điềm đạm chẳng khác Đào Uyên Minh tái thế; cách sinh hoạt tuy khác, nhưng tài xuất khẩu thành thơ lại đồng nhất:

Sơn cư ý hà viên Phóng khoáng liễu vô nhai Tùng căn tự tác chẩm Thụy khởi tự phanh trà

Ở núi ý đâu xa Phóng khoáng thật bao la Gốc thông ta làm gối Ngủ dậy tự châm trà.

Trừ bài này ra, những bài thơ Sư làm. Phần nhiều là Thất luật cùng Thất tuyệt. Trong số Thất tuyệt có bài “Nga Mi Sơn quái thạch Thê Vân” như sau:

Thạch hác vân đào cao tế thiên Hồn luân hoàn thị thái sơ tiên Pha tiền độc tử mê quy lộ Dân nhập hương phong xúc bạch liên.

Hang đá tuôn mây giáp với trời Hoang sơ như thuở mới khai thiên Sườn non mục tử quên đường cũ Theo gió hương về vờn bạch liên.

Tuyệt nhất là câu: “Theo gió hương về vờn bạch liên”, lời lẽ tụ nhiên song ý tứ rất sâu xa. Thơ Vương Ngư Dương: “Ngoài kia gió lộng hoa sen nở” (Môn ngoại dã phong khai bạch liên) cũng thế. Hòa thượng chỉ cần thay da đổi thịt cũng thành diệu đế. Chẳng những thơ Ngũ ngôn, Thất tuyệt đã khéo mà thơ Thất luật tả cũng hay. Chẳng hạn như bài Quá Không Đồng Sơn:

Tạc phá vân căn nhất kính thông Thiền lâu viễn tại bích hà trung Nham xuyên tuyết khiếu thiên phong lĩnh Nguyệt đáo thiền tâm ngũ uẩn không Ngoan thạch phong yên hoàn thái cổ Tà dương nhập vũ lệ không đồng. Sơn tăng bất ký nhân gian sự Văn thuyết Quảng Thành hữu đạo phong.

Tạm dịch:

Qua Núi Không Đồng

Đục phá chân mây mở lối thông Thiền lâu thấp thoáng giữa ráng hồng Đá xuyên hang tuyết nghìn non lạnh Trăng gội tâm thiền ngũ uẩn không Đá phủ rêu phong từ vạn cổ Trời chiều mưa nhỏ lệ Không Đồng Sơn tăng chẳng nhớ nhân gian sự Nghe nói Quảng Thành có đạo phong.

Ngài còn có bài “Bì Đại Ca” làm năm 19 tuổi, (Bài ca túi da) Tam ngôn Thất ngôn đan xen, câu tuy thường nhưng ý rất hay. Được giới Tăng lữ ưa tụng đọc vì giản dị không rườm.

Thơ của Hòa thượng mới xuất bản nên lời phê bình rất ít, nhưng tinh thần tôn chỉ của Ngài không ở trong thơ, bởi thơ chỉ là thú tiêu khiển giải khuây, giống như một hơi thở ra sau những lúc tu trì mà Ngài ngẫu hứng phóng bút thành thơ, hoàn toàn không cố ý. Tuy không cầu mà đạt, chẳng mong công phu mà tự có công phu. Đây là khúc quanh khả ái của thơ.

NÁM QUÍ TỴ (1953) 114 TUỔI

Mùa đông năm trước, sau khi Đạo Tràng Thủy Lục đã viên mãn, Sư định rời đất Hổ, Tăng Ni Phật tử cảm thấy Pháp hội thù thắng này khó gặp nên đã nài nỉ xin Sư ở lại mở Thiền thất. Nhân chùa Ngọc Phật đã có Thiền Đường sẵn, đủ điều kiện thích hợp để phục hưng Thiền. Hòa thượng Vi Phang, Giản Ngọc Giai, Lý Tư Hạo, Triệu Phác Sơ, Lý Ất Tôn, Phương Tử Phan, Hồ Hậu Phủ, Trương Tử Liêm, Chung Huệ Thành, Lý Kinh Vĩ, Chúc Hoa Bình… môt lòng thỉnh Sư cử hành Thiền thất, từ bi thí pháp cho đại chúng được thỏa nguyện. Sư ưng thuận, quyết định ngày mồng 9 tháng giêng (22/2/1953) Chủ Nhật sẽ bắt đầu khai Thất, đến rằm thì hoàn mãn. Đại chúng thấy vẫn chưa nếm đủ pháp vị, khẩn khoản xin Sư mở tiếp một Thiền thất nữa. Thế là ngày 16 tháng giêng, Chủ Nhật, năm Quý Tị (1/3/1953 D.L), Sư khai tiếp Thiền thất đợt Hai, ấn định tới ngày 23 thì giải thất, viên mãn. Trong thời gian này, Sư đã ban pháp ngữ khai thị.

NGÀY ĐẨU TIÊN, THẤT THỨ NHẤT

(Chủ nhật mồng 9 tháng giêng năm Quí Tỵ. 22/2/1953 tại chùa Ngọc Phật Thượng Hải)

Đại Hòa thượng (Vi Khang) nơi đây rất mực từ bi, chư sư Thủ lĩnh tâm đạo rất là tha thiết, thêm vào đó, các vị Đại cư sĩ mộ đạo tinh cần, ai nấy đều phát tâm đả Tịnh thất, mời Hư Vân này đến đây chủ trì, có thể nói đây là một nhân duyên thù thắng. Chỉ hiềm mấy năm gần đây tôi bị bệnh không thể giảng nhiều.

Đức Thế Tôn nói pháp hơn 40 năm, thuyết Hiển, Mật… ngôn giáo nhiều đến Ba tạng, Mười hai bộ Kinh. Giờ tôi thuyết, chẳng qua là thâu thập những câu nói dư thừa của Phật tổ. Phật lúc thăng tòa cuối cùng, đã cầm đóa hoa Kim Đàn Mộc vua trời Đại Phạm dâng cúng, đưa lên cho đại chúng xem. Lúc này cả hội chúng trời người đều không ai hiểu, chỉ Tôn giả Ma-ha-ca-diếp là mỉm cười. Thế Tôn liền bảo: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, nay phó chúc cho ông”. Đây là “giáo ngoại biệt truyền” (truyền riêng ngoài giáo), chẳng lập văn tự, ngay đó nhận lấy pháp môn vô thượng. Người sau gọi chung chung đây là Thiền. Phải biết rằng trong Kinh Đại Bát Nhã, khi bàn tới Thiền, đã nêu lên hơn 20 loại, đều chẳng phải cứu cánh. Riêng Thiền trong Tông môn thì không lập giai cấp, ngay đó nhận hiểu (trực hạ liễu đương), kiến tánh thành Phật, là Thiền vô thượng, thì có gì là đả thất hay chẳng đả thất?

Chỉ do chúng sinh căn khí ngày một cùn lụt, vọng niệm quá nhiều nên mới thỉnh chư Tổ đặc biệt lập ra một pháp phương tiện nhiếp thọ. Tông này truyền tương tục từ ngài Ma-ha-ca diếp đến nay đã trải qua sáu-bảy mươi đời. Vào thời Đường, Tống, Thiền tông phổ biến khắp thiên hạ, không Tông nào thịnh bằng. Hiện nay đã suy vi đến cùng cực, chỉ có các nơi như Kim Sơn, Cao Mân, Bảo Quang… là còn duy trì được mà thôi. Vì vậy mà nhân tài trong Tông môn rất ít. Ngay đến việc đả thất đa sô chỉ có trên danh từ chứ không có thực chất.

Đời nay, chúng ta căn khí yếu hèn nên chư vị Đại tổ sư tạm lập phương tiện, dạy tham một câu thoại đầu. Tham có nghĩa là Tham khán, cho nên trong các Thiền đường đều có treo bốn chữ “Chiếu Cố Thoại Đầu”. Chiếu: tức là phản chiếu, cố là quay nhìn lại, tức là nhìn lại tự tánh, dạy bọn chúng ta đem cái tâm chỉ một bề hướng ngoại tìm cầu, xoay lại phản chiếu thì mới đúng là khán thoại đầu.

Nói về thoại đầu, thì “Niệm Phật là ai?r‘ chỉ là câu thoại. Câu thoại đó khi chưa nói ra mới là thoại đầu (đầu của lời nói), đã nói rồi thì trở thành thoại vĩ. Chúng ta tham thoại đầu thì điều quan trọng là phải tham đến chữ AI, khi nó chưa khởi lên thì rốt ráo như thế nào? Ví dụ như tôi đây đang niệm Phật, chợt có người đến hỏi: “Này ông! Người niệm Phật đó là ai vậy?”. Tôi liền đáp: “Người niệm Phật đó là tôi”. Hỏi tiếp: “Người niệm Phật đó là ông, vậy thì ông niệm Phật bằng miệng hay bằng tâm? Nếu là miệng niệm thì khi ông ngủ, vì sao miệng không niệm? Nếu mà tâm niệm thì lúc ông chết rồi làm sao tâm niệm?” Chúng ta do câu hỏi này bèn khởi nghi, cần phải truy cứu đến tận cùng cái nghi này, quán sát kỹ xem cái câu niệm Phật đó từ chỗ nào mà tới? Ra làm sao? Phải xem xét cho tĩ mỉ, phản chiếu lại thật kỹ lưỡng. Đây chính là “phản văn tự tánh”.

Trong lúc hành hương (kinh hành vòng quanh trong Thiền đường), cổ tựa vào cổ áo, bước từng bước theo sát chân người đi trước, trong lòng bình tĩnh chẳng cần phải ngó Đông, liếc Tây, chỉ một niệm chiếu cố thoại đầu.

Trong khi Tọa hương (ngồi thiền trong khoảng một thời gian ấn định), ngực chẳng được quá ưỡn, hơi thở chẳng nên đưa quá cao hay hạ quá thấp, cứ để tự nhiên. Chỉ cần thâu nhiếp cửa lục căn lại, muôn niệm buông hết, Nếu thoại đầu tham được đúng thì công phu tự nhiên thuần thục, các tập khí (thói quen) tự dưng dứt hết.

Người mới dụng công đối với câu thoại đầu chẳng dễ gì tham đúng được. Các ông chỉ cần đừng sợ, cũng đừng tơ tưởng tới sự khai ngộ, hoặc khởi niệm cầu trí huệ… cần biết đả thất chính là để khai ngộ, tức là cầu trí huệ, các ông nếu cứ khởi tâm mong cầu thì chẳng khác nào trên đầu lại đặt thêm một cái đầu nữa.

Các ông ngày hôm nay là người mới tập dụng công, thoại đầu đề khởi chẳng được thì ngàn muôn lần cũng không nên nôn nóng, chỉ cần muôn niệm rỗng rang, chiếu cố thoại đầu cho miên mật. Vọng tưởng có đến thì cứ cho nó đến, ta không lý tới nó thì vọng tưởng tự nhiên hết. Cho nên có câu: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Vọng tưởng có đến, ta chỉ cần dùng sức giác chiếu, nắm chặt một câu thoại đầu, thoại đầu nếu biến mất thì ta lập tức đề khởi lại. Lúc đầu, khi mới ngồi thiền thì dương như là vật lộn với vọng tưởng, những lâu ngày ta mới đủ sức để khởi câu thoại đầu lên, chẳng cho nó chạy mất. Bấy giờ các ông đã tìm ra chỗ để nắm rồi vậy. Những gì tôi nói ra chỉ là lời nói suông, tốt nhất là các ông hãy dụng công đi.

10

NGÀY THỨ HAI, THẤT THỨ NHẤT

Mồng 10 tháng Giêng Quí Tỵ (23/2/1953)

Pháp đả thất là một pháp môn hay nhất, có ấn định kỳ hạn để chứng ngộ. Thuở xưa khi căn tánh con người còn lanh lợi, thì pháp này chưa được chú trọng lắm. Mãi đến triều Tống nó mới dần được mở rộng. Đến triều Thanh, khoảng niên hiệu Ung Chính (1723-1736), pháp môn này càng thịnh, vua Ung Chính thường đả thất tại hoàng cung, ông ta rất xem trọng Thiền, đồng thời mức thiền định của nhà vua cũng khá phi thường. Dưới tay ông có hơn mười người ngộ đạo. Ngài Thiên Huệ, vị tổ đã đắc pháp, ở chùa Cao Mân, Dương Châu cũng ngộ đạo trong hội của nhà vua. Tất cả phép tắc quy củ của Thiền môn đều do ông một phen chỉnh đốn. Nhờ vậy mà tông phong đại chấn, nhân tài xuất hiện khá nhiều. Cho nển quy củ hết sức cần thiết, là khuôn phép tắc ấn định kỳ hạn để cùng tuân thủ, giống như Nho sinh khi vào trường thi, phải theo đề mà làm văn, y theo bài văn mà khảo xét, phải có thời gian nhất định. Đề mục đả thất của chúng ta gọi là tham Thiền, cho nên ngôi nhà này được gọi là Thiền Đường. Hiện nay trong Thiền Đường này, có ai tham thấu được nghi tình, ngồi dứt được mạng căn thì liền đồng với Như Lai. Cho nên Thiền Đường này còn có tên là Trường tuyển Phật, cũng gọi là Bát Nhã Đường. Những pháp học được trong nhà này đều là pháp Vô Vi. Vô: nghĩa là không có tạo tác, không một pháp để được, không một pháp để làm. Nếu hữu vi thì sinh diệt, có được thì có mất. Ngay đây nhận lấy (trực hạ thừa đương), chẳng cần phải xài ngôn thuyết nhiều.

Xưa, có một học nhân đến tham vấn Ngài Nam Tuyền, hỏi:

– Thế nào là đạo?

Đáp:

– Tâm bình thường là đạo.

Chúng ta thường ngày ăn cơm mặc áo, hít vào thở ra, không gì mà chẳng hành đạo. Chỉ vì chúng ta đụng đâu chấp đó, nên chẳng biết tâm mình là Phật.

Xưa, Thiền sư Pháp Thường Đại Mai, lúc mới đến tham vấn Mã Tổ, hỏi:

– Thế nào là Phật?

Tổ bảo:

– Chính tâm là Phật.

Sư liền đại ngộ, bèn từ giã Mã Tổ, đến Tây Minh, (chỗ ẩn cư của ông Mai Tử Chân trước kia), cất am tranh trú ngụ. Khoảng niên hiệu Đường Trinh Nguyên (785-805), dưới hội Diêm Quang có một vị Tăng, nhân đi tìm cây làm gậy bị lạc đường tới am của Sư, bèn hỏi:

– Hòa thượng ở nơi đây được bao lâu rồi?

Sư đáp:

– Chỉ thấy bốn núi xanh rồi vàng.

Lại hỏi:

– Đi lối nào ra khỏi núi?

– Theo dòng nước mà đi.

Ông Tăng trở về trình lại Diêm Quang. Quang nói:

– Lúc ở Giang Tây ta từng gặp một vị Tăng, từ đó về sau không nghe tin tức gì, chẳng biết có phải là ông ta chăng?

Bèn sai vị Tăng đi mời Sư, Đại Mai dùng bài kệ đáp:

Tồi tàn khô mộc ỷ hàn lâm Kỷ độ phùng xuân bất biến tâm Tiều khách ngộ chi du bất cố Dĩnh nhân na đắc khổ truy tầm Nhất trì hà diệp y vô tận Sổ thọ tùng hoa thực hữu dư Cương bị thế nhân tri trụ xứ Hựu di mao xá nhập thâm cư.

Cây khô gãy mục dựa rừng hoang Mấy độ xuân về chẳng đổi tâm Ông tiều gặp phải không thèm ngó Dĩnh khách nhọc chi phải kiếm tầm? Lá sen vô tận may làm áo Lót dạ hoa thông mãi vẫn thừa Vừa bị người đời hay chỗ ở Liền dời nhà ẩn tận non xanh

Mã Tổ nghe Sư trụ núi bèn sai Tăng đến hỏi:

– Hòa thượng, gặp Đại sư Mã Tổ được cái gì mà vào ngụ trong núi này?

Sư đáp:

– Đại Sư nói tôi: “Tức tâm là Phật”, tôi liền vào ở đây.

Tăng nói:

– Gần đây Đại Sư dạy Phật pháp đã khác đi rồi.

Sư hỏi:

– Ngài dạy ra sao?

Tăng nói:

– Ngài bảo “Phi tâm phi Phật” (chẳng phải tâm chẳng phải Phật).

Sư nói:

– Cái ông già đó cứ mê hoặc người chẳng có ngày dừng. Mặc kệ thuyết “phi tâm phi Phật” của ổng, tôi chỉ biết “tức tâm là Phật”.

Vị Tăng trở về thuật lại tự sự cho Mã Tổ nghe, Tổ bảo:

– Trái mai đã chín rồi!

Qua mẫu chuyện trên thấy người xưa liễu ngộ đơn giản, thiết thực ra sao! Chỉ vì các ông và tôi căn cơ hạ liệt, vọng tưởng quá nhiều nên chư vị Tổ Sư mới dạy tham một câu thoại đầu, đây chỉ là việc bất đắc dĩ mà thôi!

Tổ Sư Vĩnh Gia nói:

Chứng thật tướng vô nhân pháp Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sinh Nguyện chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.

Chứng thật tướng, không nhân pháp Sát-na diệt hết nghiệp A-tỳ. Nếu đem lời dối gạt chúng sinh Nguyện bị rút lưỡi trần sa kiếp.

Tổ sư Cao Phong Diệu nói: “Kẻ học đạo dụng công cũng giống như đem một mảnh ngói ném vào đầm sâu, nó sẽ chìm mãi xuống tới đáy mới dừng lại”. Bọn chúng ta khán câu thoại đầu, cần phải đem câu thoại đầu khán cho đến đáy, thẳng đến ỉúc khám phá được câu thoại đầu đó mới thôi. Tổ sư Cao Phong Diệu lại phát nguyện rằng: “Nếu có người đề cử một câu thoại đầu mà chẳng sinh hai niệm, nội trong khoảng bảy ngày nếu không ngộ đạo thỉ tôi sẽ vào địa ngục Bạt Thiệt vĩnh viễn”. Chỉ vì bọn chúng ta niềm tin chẳng thật, tu hành không kiên cố, buông vọng tưởng không nổi… Nếu như tâm sinh tử thiết tha thì một câu thoại đầu chẳng thể dễ dàng lẫn mất được.

Tổ Quy Sơn nói:

“Sinh sinh nhược năng bất thối Phật giai quyết định khả kỳ”.

Nghĩa là:

Đời đời nếu không thối chuyển Quả Phật quyết định có ngày.

Người mới phát tâm tu thảy đều có nhiều vọng tưởng. Ngồi thiền chân bị đau, chẳng biết dụng công sao cho đúng pháp. Kỳ thật, chỉ cần đem tâm sinh tử thiết tha, không rơi vào hôn trầm, không lạc vào trạo cử, thì lo gì quả Phật không có ngày?

Nếu gặp hôn trầm đến, ông có thể mở lớn mắt ra, ngồi thẳng lưng lên một chút nữa thì tinh thần tự nhiên được phấn chấn lại. Nếu dụng công quá lơ là thì vọng tưởng dễ sinh khởi, vọng tưởng đã khởi thì trạo cử khó điều phục. Cho nên trong lúc dụng công cần phải trong thô có tế, trong tế có thô, mới có thể khiến cho công phu đắc lực, vừa có thể khiến cho động tịnh nhất như.

Ngày xưa, tôi dự Bảo Hương tại các chỗ như Kim Sơn… Sư Duy na giục đúng dậy khởi hương, hai chân chạy như bay, sư tăng chạy thật giỏi, nhưng vừa nghe tiếng bảng gõ thì đứng sựng lại như người chết, lúc đó còn có vọng tưởng hôn trầm gì nữa? Bọn chúng ta hiện nay tu tập Bảo Hương thật cách xa.

Phương pháp tu này đối với ai mới bắt đầu dụng công đương nhiên là không dễ, nhưng các ông cần phải dụng công trong từng giờ. Tôi nói thêm một ví dụ nữa: “Việc tu hành cũng giống như dùi đá lấy lửa, cần phải có phương pháp. Nếu không có phương pháp thì dù cho ông có đem viên đá lửa ấy đập nát, cũng không lấy được lửa. Điều cần yếu của phương pháp ấy là phải có một cái mồi bằng giấy cùng một con dao bật lửa, mồi giấy bắt lửa phải đặt phía dưới cục đá lửa. Sau đó mới dùng con dao lửa đập mạnh vào cục đá một cái thì lửa từ hòn đá xẹt ra, bắt vào mồi giấy, mồi giấy liền phát cháy. Chúng ta giờ đã biết rõ tự tâm mình là Phật, chỉ vì không thể thừa nhận nên đành mượn một pháp tu làm con dao bật lửa. Thuở xưa, Đức Thế Tôn một đêm nọ nhìn thấy sao mai, hoát nhiên ngộ đạo. Cũng giống như thế, chúng ta ngày nay đối với cách lấy lửa này lại không biết cho nên không rõ được tự tánh. Tự tánh của chúng ta vốn cùng với Phật không hai, chỉ do vọng tưởng chấp trước nên không được giải thoát. Vì vậy mà Phật vẫn là Phật, ta cứ là ta. Tôi và các ông sáng nay đã biết được phương pháp rồi, có thể tự mình tham cứu, đây quả là một nhân duyên thù thắng không gì bằng, hy vọng các ông nỗ lực, trên đầu sào trăm thước tiến thêm một bước nữa, vượt khỏi trường thi này, ngõ hầu “Trên báo ân Phật, dưới lợi ích chúng sinh”. Trong Phật pháp, nhân tài không xuất hiện là vì các ông không chịu nỗ lực, tôi thật đau lòng mà nói như thế. Nếu như tin chắc lời dạy của ngài Vĩnh Gia cùng tổ Cao Phong Diệu, đã vì bọn chúng ta mà phát lời thệ nguyện thì chúng ta chắc chắn đều có khả năng ngộ đạo, các ông hãy nỗ lực mà tham đi!

NGÀY THỨ BA, THẤT THỨ NHẤT

11 tháng Giêng, năm Quí Tỵ (24/2/1953)

Thời giờ trôi qua thật mau, mới nói đả thất, nay đã qua ngày thứ ba. Với người dụng công, một câu thoại đầu chiếu cố đắc lực thì trần lao vọng niệm nào cũng lóng trong, có thể đi thẳng đến nhà. Cho nên cổ nhân nói: “Tu hành không tu gì khác, chỉ cần biết đường”. Đường đi nếu biết rành thì việc sinh tử dứt. Đường của chúng ta chĩ cần buông hết gánh nặng xuống thì quê nhà gần trong tấc gang. Lục Tổ nói: “Niệm trước chẳng sinh là tâm, niệm sau chẳng diệt là Phật”. Các ông và tôi xưa nay tứ đại vốn không, ngũ ấm chẳng có. Chỉ do vọng niệm chấp trước, yêu mến ràng buộc pháp huyễn thế gian nên mới thành ra: Tứ đại chẳng không, sinh tử chẳng rõ. Nếu như trên thể của một niệm khởi vô sinh, thì những pháp môn do chính Đức Phật Thích Ca nói ra, chẳng cần dùng đến, lẽ nào sinh tử chẳng thể dừng? Cho nên một pháp này trong Tông môn, chính là ánh sáng vô lượng chiếu khắp mười phương.

Xưa, Tổ sư Đức Sơn là người Giản Châu, Tứ Xuyên, họ Chu. Sư xuất gia năm 20 tuổi, thọ giới cụ túc cũng vào năm này. Sư nghiên cứu Luật tạng cùng tánh tướng các Kinh, hiểu thông suốt ý chỉ. Sư thường giảng Kinh Kim Cang Bát Nhã nên người thời đó gọi Sư là Chu Kim Cang. Sư thường bảo bạn đồng học rằng: “Một sợi lông nuốt biển, tánh biển vẫn không thiếu, ghim hạt cải trên đầu mũi kim, mũi kim vẫn bất động. Học cùng không học, chỉ có ta tự biết”. Sau, Sư nghe ở phương Nam Thiền tông thịnh hành, bất bình nói: “Kẻ xuất gia ngàn kiếp học oai nghi Phật, muôn kiếp học tế hạnh của Phật, còn chưa thành Phật. Vậy mà lũ ma ở phương Nam dám nói: “Chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật”. Ta phải quét sạch hang ổ, diệt hết bọn chúng để báo ân Phật”. Rồi Sư gánh bộ Thanh Long Sớ Sao ra khỏi đất Thục. Trên đường đến Phần Dương, Sư gặp một bà già bán bánh, bèn dừng lại mua bánh điểm tâm. Bà già chỉ gánh hành lý của Sư hỏi:

– Đây là Kinh sách gì vậy?

Sư đáp:

– Thanh Long Sớ Sao.

– Thầy thường giảng Kinh gì?

– Kinh Kim Cang.

Bà già nói:

– Cho tôi hỏi một câu, nếu Thầy đáp được tôi xin cúng dường bánh điểm tâm, bằng đáp không đươc, xin mời đi nơi khác.

Sư bằng lòng, bà hỏi:

– Trong Kinh Kim Cang có câu: “Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được” Chẳng biết Thượng tọa muốn “điểm” cái tâm nào?

Sư không đáp được, bèn đi đến Long Đàm.

Tới Pháp Đường, Sư nói:

– Từ lâu đã nghe danh Long Đàm (đầm rồng) nhưng đến nơi rồi thì đầm chẳng thấy, mà rồng cũng không.

Ngài Long Đàm bước ra bảo:

– Ông đã đến được Long Đàm rồi.

Sư không đáp được bèn dừng ở lại đây.

Một buổi tối, đến phiên Sư đứng hầu, Long Đàm nói:

– Khuya rồi, sao ông không về đi!

Sư trân trọng bước ra rồi quay lại thưa:

– Bên ngoài tối thui.

Long Đàm mồi đèn trao cho Sư, Sư vừa đưa tay nhận, Long Đàm liền thổi tắt. Sư ngay đây đại ngộ. Bèn làm lễ. Long Đàm hỏi:

– Ông thấy cái gì?

Sư thưa:

– Từ nay về sau con chẳng còn nghi ngờ lời của các Hòa thượng trong thiên hạ nữa.

Hôm sau, Long Đàm thăng tòa bảo đại chúng:

– Trong đây có một gã răng bén như kiếm, miệng tợ chậu máu, một gậy đánh chẳng quay đầu. Lúc khác, hắn ta sẽ lên ngọn núi cao dựng lập đạo của ta.

Sư đem bộ Thanh Long Sớ ra chất trước Pháp Đường châm lửa nói:

– Tột cùng các lời bàn về lý huyễn như một sợi lông ở giữa hư không. Hết thảy những trọng yếu trên đời tợ như một giọt nước gieo vào hồ lớn.

Và Sư đốt trụi lũi, rồi bái biệt ngài Long Đàm đi thẳng đến Quy Sơn.

Vào Pháp Đường, Sư đi từ phía Đông sang Tây, rồi từ Tây sang Đông, xong lại nhìn Phương trượng hỏi:

– Có chăng, có chăng?

Quy Sơn ngồi trên tòa không thèm dòm tới.

Sư nói:

– Không, không!

Rồi bỏ đi ra. Đến đầu Sơn môn lại nói:

– Mặc dù là vậy, cũng chẳng cẩu thả sơ sài.

Bèn đầy đủ uy nghi đi trở vào yết kiến. Vừa đến cửa, Sư đã đưa tấm tọa cụ lên gọi: “Hòa thượng”. Quy Sơn toan nắm phất tử, Sư liền hét, phất áo đi ra.

Chiều đến, Quy Sơn hỏi sư Thủ tòa:

– Ông Tăng mới đến hôm nay còn đây không?

Thủ tòa thưa:

– Ngay lúc quay lưng ra khỏi pháp đường, ông ta đã xó giầy đi thẳng.

Quy Sơn bảo:

– Gã này ngày sau lên đỉnh núi cao, kết am tranh la Phật, mắng Tổ ở đó.

Sư trụ ở Lễ Dương 30 năm. Gặp lúc Đường Võ Tông phê giáo, Sư lánh nạn ở một mình trong Thạch Thất ở Phù Sơn. Năm Đại Trung đầu tiên (847), quan Thái thú Tiết Đình Vọng ở Võ Lăng, trùng tu lại Tịnh Xá Đức Sơn đề hiệu là Cổ Đức Thiền Viện, định mời những vị cao đức đến trụ trì, nghe đạo hạnh của Sư liền đến nài thỉnh nhiều phen. Nhưng Sư vẫn từ chối không chịu xuống núi. Đình Vọng bèn lập kế sai người đem trà muôi đến vu cáo, bảo Sư phạm pháp rồi giải về châu. Chiêm lễ xong ông khẩn khoản mời Sư ở lại xiển dương Thiền tông. Người sau đồn nhau: “Đức Sơn hét, Lâm Tế gậy”.

Được như ngài Đức Sơn thì lo gì sanh tử chẳng dứt. Môn đệ ngài Đức Sơn có Nham Đầu, Tuyết Phong. Môn đệ Tuyết Phong có Vân Môn Pháp Nhãn, rồi Quốc sư Đức Thiều, Vĩnh Minh Diên Thọ, đều nhờ một gậy đánh này mà xuất hiện. Trải qua các triều đại, Phật pháp đến nay đều nhờ các vị Đại tổ sư trong Tông môn gánh vác.

Chư vị đến đây đả thất, đều đã thể hội sâu đạo lý tối thượng này, ngay đây nhận lấy, liễu thoát sinh tử, chẳng phải là chuyện khó. Còn nếu xem chuyện tu hành như trò đùa trẻ con, chẳng chịu đạt đến tử tâm. Cả ngày chỉ thấy bóng sáng cửa quỷ, (quang ảnh môn đầu) hoặc cứ ở trong hang ổ văn tự mà toan tính, nên cuối cùng sinh tử chẳng thể dứt. Xin các ông hãy nỗ lực tinh tấn!

NGÀY THỨ TƯ, THẤT THỨ NHẤT

12 tháng Giêng Quí Tỵ (25/2/1953)

Bốn ngày trong thời gian một thất đã trôi qua, quí vị đều nỗ lực dụng công, có người làm thi kệ đến trình tôi xem. Đó là điều thật khó được. Chí cần xem sự dụng công của quí vị như vậy thì đủ biết quý vị đã quên tuốt những điều tôi nói trong hai ngày trước.

Tối qua, tôi có nói: “Chuyện tu hành không có gì. khác, chỉ cần phải rõ đầu đường”. Mục đích chính của chúng ta là thành Phật, liễu sanh tử. Muốn liễu sanh tử thì cần phải mượn câu thoại đầu làm thanh bảo kiếm Kim Cang vương. Ma đến chém ma, Phật đến chém Phật, chẳng lưu một mảy tình, chẳng lập một pháp. Trong đó làm sao lại có nhiều vọng tưởng để mà làm thơ làm kệ? Khoe thấy các cảnh giới không, cảnh giới quang minh này nọ? Nếu dụng công kiểu đó, tôi chẳng rõ câu thoại đầu của quí vị đã đến đâu rồi!? Các vị đã tu tập lâu năm thì chẳng nói, riêng các vị mới phát tâm tu cần phải lưu ý. Do tôi sợ các vị không hiểu cách dụng công cho nên hai ngày trước đã nói về nguyên cớ của việc đả thất, giá trị của pháp môn và cách dụng công, tất cả đều giảng qua cả rồi. Pháp dụng công của chúng ta là đơn cử môt câu thoại đầu, ngày đêm sáu thời như dòng nước chảy không cho gián đoạn, cẩn phải “linh minh bất muội, liễu liễu thường tri” (sáng suốt không mờ, rõ ràng thường biết), tất cả tình pham kiến giải Thánh chỉ cần đưa một dao chặt đứt cả hai.

Người xưa nói:

Học đạo du như thủ cấm thành Khẩn bả thành đầu chiến nhất trường Bất thọ nhất phiên hàn triệt cốt Chẩm đắc mai hoa phốc tỷ hương.

Học đạo giống như giữ cấm thành Đầu thành giữ chặt đánh tan xương Chẳng trải một phen xương lạnh buốt Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương

Đó là lời của Thiền sư Hoàng Bá nói, bài thơ có hai ý nghĩa: Hai câu trước thí dụ người dụng công như chúng ta, phải giữ chặt câu thoại đầu hệt như người giữ cấm thành, bất kỳ ai cũng không cho ra vào. Sự canh phòng giữ gìn như thế thật hết sức nghiêm ngặt. Bởi vì mỗi người chúng ta đều có một Tâm vương, cái Tâm vương này tức là đệ bát thức (thức thứ Tám). Ngoài thức thứ Tám này ra, còn có thức thứ Bảy, thức thứ Sáu và Năm thức đầu. Năm thức đầu là năm tên giặc: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Thức thứ Sáu là tên giặc Ý. Thức thứ Bảy là Mạt-na. Thức Mạt-na này từ sáng đến tối luôn tham trước kiến phần của thức thứ Tám, chấp đó là ngã, hướng dẫn thức thứ Sáu xuất lãnh năm thức đầu khiến chúng tham ái trần cảnh: sắc, thinh, hương, vị, xúc, nên bị trói buộc mê lầm không giây phút nào gián đoạn, khiến cho thức thứ Tám (Tâm vương) này lao đao gần chết, không thể nào chuyển nổi. Vì vậy chúng ta ngày hôm nay cần phải mượn câu thoại đầu làm (bảo kiếm Kim Cang vương) chém sạch bọn giặc cướp đó, khiến thức thứ Tám chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí, thức thứ Bảy chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí, thức thứ Sáu chuyển thành Diệu Quan Sát Trí, Năm thức đầu chuyển thành Thành Sở Tác Trí. Nhưng điều tối khẩn yếu là phải chuyển thức thứ Sáu và thức thứ Bảy trước, bởi vì tác dụng của chúng là lãnh đạo, do có khả năng suy lường nên mới có khả năng phân biệt so đo. Hiện giờ chúng ta làm thơ, làm kệ, thấy không, thấy sáng đều do hai thức này phát tác. Chúng ta hôm nay cần phải mượn câu thoại đầu, biến thức phân biệt thành Diệu Quan Sát Trí, tâm so đo tính toán nhân ngã thành Bình Đẳng Tánh Trí. Như vậy là chuyển Thức thành Trí, chuyển Phàm thành Thánh, cần phải làm cho tên giặc tham đắm sắc, thinh hương, vị, xúc, pháp không thể xâm phạm. Vì thế mà ngài Hoàng Bá dạy: “Như giữ cấm thành”.

Hai câu sau:

Chẳng trải một phen xương lạnh buốt Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương.

Là dụ cho chúng ta: Những chúng sinh đang chìm trong biên khổ sanh tử, bị ngũ dục trói buộc, bị trần lao mê hoặc chẳng được giải thoát, vì vậy mới đem hoa mai làm thí dụ. Bởi hoa mai là loài hoa có thể nở trong ngày tuyết đổ. Mọi vật trên thế gian này đều sinh vào mùa xuân, tăng trưởng trong mùa hạ, thu hoạch vào mùa thu, và ẩn vào mùa đông. Vào mùa đông khí trời giá buốt, tất cả các loài côn trùng thảo mộc đều bị chết cóng nên thường thu mình ẩn trốn đi. Bụi đất trong mùa tuyết rơi cũng trở nên lạnh lẽo trong sạch vì không thể dấy bay lên được. Như vậy, hết thảy côn trùng, cây cỏ, bụi đất, tro nhơ… cũng ví như bản tâm của chúng ta chứa đầy vọng tưởng phân biệt, vô minh, tật đố, tam độc, phiền não… chúng ta phải quét sạch hết những thứ đó đi thì Tâm vương được tự nhiên tự tại, giống như cành mai trong mùa tuyết đổ, nở hoa tỏa ngát hương. Các ông phải biết là: chính trong lúc trời băng đất tuyết mà mai có thể trổ hoa, chứ không phải vào tiết xuân ấm áp, hoặc gió thuận khí hòa mà nở hoa. Các ông và tôi cần phải biết rằng Hoa tâm của mình không thể nở hay xuất hiện trong lúc mừng giận vui buồn; nhân, ngã, phải, quấy… được. Bởi vì tâm của chúng ta (tám thức) chỉ cần một phen hồ đồ thì rơi vào tính vô ký. Nếu tạo ác liền thành tính ác, nếu tạo thiên liền thành tính thiện. Riêng vô ký còn có: Vô ký trong mộng, vô ký ngoan không. Vô ký trong mộng tức là lúc hôn mê trong chiêm bao, chỉ có những huyễn cảnh trong mộng, là những chuyện tạo tác hằng ngày không được biết rõ, đó là cảnh giới đơn độc của ý thức cũng là đơn độc vô ký. Còn vô ký ngoan không – là như chúng ta hiện nay đang ngồi thiền, đang tỉnh táo thì chợt quên mất thoại đầu, lạc vào cảnh giới rỗng không, mơ hồ, gì cũng không có, chỉ còn sự tham đắm vào cảnh giới thanh tịnh, đây là một loại thiền bệnh mà chúng ta khi dụng công cần phải tránh. Trạng thái này là Không vong vô ký.

Trong suốt ngày đêm hành đạo chúng ta chỉ cần đem một câu thoại đầu sáng tỏ không mờ, rõ ràng thường biết (linh minh bất muội, liễu liễu thường tri), đi cũng thế, ngồi cũng thế. Cho nên người xưa nói: “Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, nói, nín, động, tịnh, thể an nhiên). Tổ Sư Hàn Sơn nói:

Cao cao sơn đỉnh thượng Tứ cố cực vô biên Tĩnh tọa vô nhân thức Cô nguyệt chiếu hàn tuyền Tuyền trung thả vô nguyệt Nguyệt thị tại thanh thiên Ngâm thử nhất khúc ca Ca trung bất thị thiền.

Cao cao trên đỉnh núi Bốn bề rộng vô biên Tĩnh tọa không ai biết Suối lạnh vâng tràng nghiêng Trong suối trăng nào có Trăng ngự tại thanh thiên Ngâm một khúc ca này Khúc ca chẳng có Thiền.

Ông và tôi, tất cả chúng ta đều có duyên, nên tôi mới đem pháp dụng công này nói lại một lần nữa. hy vọng các ông sẽ nỗ lực tinh tấn, chẳng nên tạp dung tâm.

Tôi xin nói thêm một công án nữa:

Ngày xưa, vị Tổ khai sơn chùa Tất Đàn ở núi Kê Túc, sau khi xuất gia đi tham lễ khắp nơi. Ngài dụng công hành đạo rất tinh tấn. Một hôm đang trụ tại nhà tro, chợt nghe cô gái nấu đậu hũ ở nhà bên cạnh hát:

Trương đậu hũ Lý đậu hũ Chẩm thượng tư lương thiên điều lộ Minh triêu nhưng cựu đả đậu hũ.

Trương nấu đậu hủ Lý nấu đậu hũ Đêm kề gối, mộng nghìn mơ Sáng ra, nầu đậu như xưa khác gì.

Lúc đó Tổ sư đang ngồi, nghe cô gái hát xong liền khai ngộ. Qua đây các ông có thể thấy được chỗ dụng công của người xưa, không phải chỉ trong Thiền Đường mới dụng công, mới ngộ đạo, mà dụng công tu hành quí ở chỗ nhất tâm. cần nhất là các ông chớ phân tâm tán loạn, nếu để thời gian trôi suông thì không chừng sáng mai vẫn nấu đậu hũ như trước!

NGÀY THỨ NĂM, THẤ THỨ NHẤT

13 tháng Giêng Quí Tỵ (26/2/1953)

Pháp tu hành nói dễ thì cũng thật dễ, nói khó thì cũng thật khó. Dễ là: Chỉ cần các ông buông xả hết, lòng tin chắc thật, phát tâm kiên cố lâu bền thì sẽ được thành công. Còn khó là: Vì chúng ta sợ cực khổ, chỉ muốn an lạc. Chẳng biết rằng, đối với tất cả pháp hữu vi trên thế gian, ta vẫn phải trải qua học tập mới được thành, huống nữa là học đạo Thánh hiền? – Muốn thành Phật thành Tổ mà vội vàng cẩu thả là có thể thành công sao? Cho nên, điều tối quan trọng là:

1- Phải có lòng tin kiên cố

Bởi vì, người tu một khi hành đạo tất cả đều không thể tránh khỏi ma chướng. Ma chướng đây tức là những trần lao nghiệp cảnh: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp mà tôi đã giảng hôm qua. Những nghiệp cảnh này chính là oan gia sanh tử của các ông và tôi. Cho nên phần đông các Pháp sư giảng kinh, thường ở trong cảnh giới này mà đứng không vững. Nguyên nhân chính là do tâm đạo không kiên cố.

2- Phải phát tâm lâu bền

Chúng ta sinh trên đời này tạo nghiệp vô số vô biên, một khi muốn tu hành, liễu sinh thoát tử, há có thể đem mớ tập khí lâu đời ấy buông được hết trong một lúc hay sao? Như chư Tổ xưa nay: Thiền Sư Trường Khánh, ngồi rách đến bảy cái bồ đoàn, Thiền Sư Triệu Châu 80 tuổi rồi mà vẫn còn đi hành cước, 40 năm khán một chữ VÔ, chẳng tạp dụng tâm, sau mới được đại triệt đại ngộ. Yến Vương và Triệu Vương rất kính mộ Sư, thường cúng dường đủ thứ. Đến triều Thanh, Hoàng đế Ung Chính xem Ngữ Lục của Sư thấy quá cao siêu, bèn phong là Cổ Phật… Như thế, chư Tổ đều do một đời khổ hạnh mới được thành công.

Các ông và tôi hiện nay phải đem những tập khí xấu buông sạch hết, lắng trong một niệm thì sẽ đồng với Phật Tổ. Như trong Kinh Lăng Nghiêm nói: “Như lóng nước dơ, phải chứa trong một nơi yên tĩnh, lắng lâu đến bất động, cát đất sẽ tự chìm xuống đáy, nước liền trong trẻo… đây gọi là mới điều phục khách trần phiền não. Tới khi đã gạn bỏ hết chất cặn bã rồi, còn thuần là nước trong, mới được gọi là Đoạn đứt cội gốc vô minh”. Tập khí phiền não của các ông và tôi giống như bùn cặn, nên phải dùng câu thoại đầu trị. Câu thoại đầu này cũng giống như cục phèn, có khả năng làm cho nước dơ lắng trong (tức là hàng phục phiền não). Nếu người dụng công có kết quả, đến chỗ thân tâm nhất như, bấy giờ cảnh tịnh hiện tiền thì cần phải chú ý, chẳng nên dừng bước nơi đây – phải biết đây chỉ là bước đầu của công phu, phiền não vô minh hãy còn, chưa đoạn trừ hết. Đó là từ tâm phiền não đi đến chỗ thanh tĩnh, cũng như lóng nước dơ thành nước trong. Mặc dù đã được như thế song cặn bùn còn nằm dưới đáy chưa trừ sạch nên cần phải gia công tiến tới. Người xưa nói:

Nếu không tiến bước thì đã nhận hóa thành làm nhà mình, phiền não (bùn nhơ chưa gạn đi) gặp cơ hội sẽ dấy khởi lại. Trong trường hợp này thì muốn làm một người tu liễu cũng khó. Cho nên cần phải gạn bỏ bùn nhơ đi, còn lại thuần nước trong mới là đoạn dứt được cội gốc vô minh. Như thế mới thành Phật. Đến lúc vô minh đã đoạn dứt hẳn, thì ông mới có thể tùy nghi tại mười phương thế giới hiện toàn thân thuyết pháp. Như Bồ-tát Quán Thế Âm có 32 ứng thân, tùy chúng sanh hợp thân nào, Ngài liền hiện thân đó đế thuyết pháp. Lúc này thì dù ở trong dâm phòng quán rượu, thai lừa bụng ngựa, thiên đường địa ngục gì… các ông đều tự do tự tại, không bị câu thúc. Nếu không được như thế thì: “Một niệm sai liền bị luân hồi”.

Thuở xưa, Tần Cối đã từng ở trước Bồ Tát Địa Tạng làm Hương đăng, chỉ vì ông ta không phát tâm trường viễn, vô minh phiền não chưa đoạn nên bị tâm sân làm hại. Đây là một thí dụ. Nếu như lòng tin các ông kiến cố, tâm lâu bền bất thối thì dù các ông là một người bình thường thế nào cũng không đáng lo, vẫn có thể thành Phật.

Thuở xưa, tại Chương Châu có một người nghèo khổ vào chùa xuất gia, lòng muốn tu hành nhưng khổ nỗi, không biết tu thế nào cho đúng, cùng không biết thưa hỏi ai. Mỗi ngày ông ta chỉ biết làm các công tác lao nhọc. Hôm nọ, có vị Tăng đi hành cước đến ngôi chùa này xin tạm trú, thấy ông ta đầu tắt mặt tối, vị Tăng hỏi:

– Công phu thường ngày của ông ra sao?

Ông đáp:

– Hằng ngày tôi chỉ biết làm các việc nặng nhọc, xin Thầy chỉ giúp tôi phương pháp tu hành!

Vị Tăng bảo:

– Ông hãy tham câu “Niệm Phật là ai?” đi!

Ông bèn làm theo lời chỉ dạy của vị khách Tăng. Thường ngày trong lúc lao tác, ông đem chữ “AI” đặt vào lòng mà chiếu cố. Về sau, ông vào ẩn tu trong Thạch Nham (núi đá), mặc cỏ, ăn cây. Bấy giờ, bà mẹ và chị ông ở nhà, nghe tin ông tu hành trong núi quá khổ, bà mẹ bèn sai người chị mang một mảnh vải và ít vật thực đến hang đá, thấy ông ngồi trên đá, nghe tiếng động vẫn bất động, bèn cất tiếng gọi, ông cũng chẳng đáp, người chị giận quá, liền ném đồ đạc rồi quay về, ông cũng không ngó ngàng chi tới, chỉ nhất tâm ngồi trong động đá tu hành. Trải qua 13 năm, người chị lại đến thăm, thấy manh vải và vật thực mình ném lần trước vẫn chưa được động đến.

Về sau, có một người lánh nạn đến nơi này, đói bụng, thấy vị Hoà thượng y phục đã rách nát ở trong hang, bèn đến gần hỏi xem có gì để ăn không. Vị hoà thượng bèn đến bên vách đá, lượm vài cục đá bỏ vào nồi, đun chín rồi đem ra cùng ăn với nhau, thấy mùi vị giống như khoai tây. Người lánh nạn ăn xong liền cáo từ. Vị hoà thượng dặn: “Ông chớ nói với ai chuyện này nhé!”. Một thời gian sau, ông ta nhủ thầm; “Mình tu ở đây nhiều năm rồi, cũng phải đi gieo duyên!”. Thế là ông đi đến Hạ Môn (Ma Cao) cất một túp lều tranh ven đại lộ, đãi trà nước cho người qua lại.

Đến niên hiệu Vạn Lịch (1573-1616), Đức Hoàng thái hậu, mẹ của Hoàng đế mạng chung, vua muốn thỉnh các bậc Cao tăng làm Phật sự. Trước tiên vua định thỉnh các bậc Cao tăng trong kinh thành, nhưng vì bấy giờ trong Kinh không có Đại đức Cao tăng, Hoàng thái hậu bèn báo mộng cho Hoàng đế Vạn Lịch hay là ở Chương Châu, Phước Kiến có bậc Cao tăng. Hoàng đế bèn sai người đến Chương Châu rước rất nhiều Tăng sĩ vào Kinh làm Phật sự. Chư Tăng đều mang hành lý tề chỉnh vào Kinh đô. Khi thấy họ đi ngang qua chỗ mình, vị Tăng già kia bèn hỏi: “Chư Sư hôm nay đi đâu mà hoan hỷ quá vậy?”. Mọi người đáp:

“Chúng tôi vâng lệnh vua về Kinh làm lễ cầu siêu cho Hoàng thái hậu.

– Cho tôi đi với được không?

– Bộ dạng ông khổ quá, làm sao mà đi chung cho được?

– Tôi không thể tụng đám nhưng có thể gánh giùm hành lý của quý vị, hãy cho tôi theo để xem kinh đô đẹp đến cỡ nào nhen?

Mọi người đồng ý cho ông đi theo gánh hành lý.

Bấy giờ Hoàng đế biết rõ con đường mà chư Tăng phải đi qua, bèn cho người đem bộ Kinh Kim Cang ra chôn ở dưới cổng ra vào. Chư Tăng thảy đều không biết nên cứ thong thả bước qua đi vào hoàng cung, chỉ riêng vị Hòa thượng có bộ dạng khổ não, lúc đi đến đó thì quỳ gối chắp tay, chẳng chịu bước qua. Mọi người thấy vậy bèn cất tiếng gọi, thúc ông tiến bước nhưng ông vẫn không chịu. Người gác cổng bèn tâu với Hoàng đế. Bấy giờ Hoàng đế biết là Thánh tăng đã đến, bèn thân hành ra đón, hỏi:

– Vì sao Thầy chẳng chịu vào?

– Dưới đất có Kinh Kim Cang nên tôi chẳng dám bước qua.

– Sao không lộn ngược mà đi?

Vị Tăng nghe nói bèn chống hai tay xuống đất chỏng hai chân lên trời, phóng mình một cái, nhảy xa hơn một thước mà vào. Hoàng đế rất kính trọng, rước Sư vào cung đình khoản đãi, hỏi cách lập đàn làm Lễ cầu siêu. Sư bảo:

– Vào canh năm sáng mai khai đàn, chỉ cần lập một cái đàn, treo một bức phan, bày chút đỉnh hương đèn, trái cây là được rồi.

Lúc ấy Hoàng đế trong lòng không vui, vì thấy đàn tràng không long trọng, cũng lo thầm vị Tăng không có đạo đức. Song vua vẫn thiết lập đàn tràng đơn giản y theo lời Sư dạy. Hôm sau, Sư thăng tòa thuyết pháp, lên đài cử hành nghi thức xong, Sư cầm tràng phan đến trước bàn vong, nói: “Tôi vốn không định đến đâu, chỉ vì bà có lòng thương muốn mời – một niệm vô sinh liền được lên cõi trời”. Làm lễ xong, Sư nói với nhà vua: “Xin mừng Thái hậu đã giải thoát”. Hoàng đế còn hồ nghi, cho là việc chưa thành, vì e chưa đủ công đức. Trong lúc đang nghi ngờ thì bỗng nghe trong cung có tiếng Thái hậu nói: “Hoàng đế hãy lễ tạ Thánh tăng đi, mẹ đã được siêu thăng rồi”. Nhà vua vừa sợ vừa mừng vội lạy tạ ân, rồi truyền thiết trai trong nội đình cúng dường. Lúc ấy, vị Tăng thấy nhà vua đang mặc chiếc quần gấm, chăm chăm nhìn không chớp mắt, vua hỏi: “Đại đức có thích cái quần này không? Và cởi tặng cho Sư. Tăng nói: “Cám ơn”. Nhà vua phong cho vị Tăng là Long Khố Quốc Sư. Thọ trai xong, vua mời Sư vườn xem hoa, trong vườn có một bảo tháp, vị Tăng trông thấy bảo tháp có vẻ vui lắm, bồi hồi chiêm ngưỡng. Vua nói:

– Quốc sư thích ngôi tháp này à?

– Tháp đẹp quá!

– Trẫm có thể dâng tặng Sư tháp này.

Vua bèn ra lệnh hạ tháp để đem đến Chương Châu xây dựng lại. Sư nói:

– Chẳng cần dỡ tháp, tôi sẽ mang nó đi!

Vừa nói Sư vừa cầm ngọn tháp, đặt vào tay áo rồi bay lên hư không, đi mất. Nhà vua vừa sợ, vừa mừng, tán thán là chưa từng có.

– Chư vị hiểu câu chuyện này ra sao? Chính nhờ từ lúc xuất gia trở đi, vị Sư đó không tạp dụng tâm, đạo tâm kiên cố, chị đến thám cũng chẳng đoái, áo quần rách nát cũng chẳng quản, bỏ mặc manh vải suốt 13 năm trời không quan tâm đến. Các ông và tôi hãy tự xét lại mình. Có thể nào dụng công như vị Sư ấy được chăng? Đừng nói từ sáng đến tối, thấy chị mình đến không thèm ngó tới là việc làm không nổi. Nội việc đang chỉ tịnh đây, thấy người Giám hương đi đốt nhang hoặc người bên cạnh có chút động tĩnh gì là cũng đưa mắt liếc họ một cái. Dụng công như thế thoại đầu làm sao mà thuần thục được? Chư vị chỉ cần bỏ bùn giữ nước lại, nước trong thì tự nhiên trăng hiện. Hãy khéo léo đề khởi thoại đầu. Tham đi!

11

NGÀY THỨ SÁU, THẤT THỨ NHẤT

14 tháng Giêng Quí Tỵ (27/2/1953)

Người xưa nói: “Ngày tháng tợ thoi đưa, thời giờ như tên bắn” mới đả thất đó thì sáng mai là giải thất rồi. Theo quy cũ, sáng mai cần phải khảo sát công phu, bởi vì đả thất tức là hành pháp theo đúng kỳ hạn để thủ chứng. Chứng, có nghĩa là chứng ngộ, thấy được chỗ “Bản địa phong quang” của chính mình, ngộ được cái “Diệu Tính Như Lai”, cho nên gọi là chứng ngộ. Khảo sát công phu nghĩa là xem xét trong thời gian bảy ngày qua, công phu của các ông đã đạt đến trình độ nào, buộc các ông phải ra trước đại chúng mà thổ lộ. Bình thường trong những lúc chấm công, đem bao tiền ra phát, ai cũng phải được dò xét, mỗi người chúng ta khi dự đả thất cần phải khai ngộ, ai cũng có khả năng hoằng dương Phật pháp, độ hết chúng sinh trong tâm mình.

Hiện giờ, không thể nói là người nào cũng khai ngộ. Ai khai ngộ rồi mới có thể nhận tiền công, nên mới bảo là “Nhiều người ăn cơm, mà một người trả tiền”. Nếu như bọn chúng ta phát khởi đạo tâm tinh tấn, thì có thể là ai ai cũng khai ngộ. Người xưa nói: ‘Phàm phu thành Phật là chuyện dễ, nhưng trừ bỏ vọng tưởng mới là chuyện khó”. Chỉ vì tôi và các ông từ vô thủy đến giờ, tham ái quá lẫy lừng, trôi nổi theo dòng sinh tử, chui vào trong tám vạn bốn ngàn trần lao, những tập khí xấu buông chẳng nổi nên chẳng được ngộ đạo. Chẳng giống như chư Phật và Bồ tát thường giác chẳng mê. Cho nên ngài Liên Trì nói:

“Duyên ô nhiễm dễ huân, đạo nghiệp khó thành. Chẳng rõ muôn duyên sai biệt trước mắt. Chỉ thấy gió cảnh mênh mông thổi làm điêu tàn cả rừng công đức. Lửa tâm hừng hực, thiêu rụi hột giống Bồ-đề. Đạo tâm nếu mạnh như thức tình thì chắc thành Phật lâu rồi. Bởi vì chúng ta hay biện biệt việc này việc nọ. Nếu chẳng thấy điều quấy của người, chẳng thấy việc hay của mình thì tự nhiên trên cung dưới kính, Phật pháp luôn luôn hiện tiền, phiền não trần lao đều được giải thoát”.

Trong mười câu trên đã trình bày sự việc hết sức rõ ràng, chân thật. Nhiễm ô là cảnh giới của phàm phu, thảy đều tham nhiễm tài sắc danh lợi, sân hận đấu tranh. Đối với hai chữ đạo đức coi như hòn đá buộc chân. Từ sáng đến chiều, mừng, buồn vui, tham ái cảnh phú quí vinh hoa, các thế tình chẳng đoạn, một chút niệm thôi dứt không có, cho nên rừng công đức bị điêu tàn, hạt giống Bồ-đề bị cháy rui. Nếu xem tình đời lợt lạt, hết thảy thân hữu oan gia đều thấy bình đẳng. Chẳng sát sinh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng vọng ngữ, chẳng uống rượu. Đối với tất cả chúng sinh, cư xử bình đẳng không phân biệt. Thấy người đói như chính mình đói, thấy người chìm đắm như mình chìm đắm… phát khởi tâm Bồ đề như thế thì mới có thể cùng đạo tương ưng, cũng có thể thành Phật tức khắc. Nên nói: “Đạo niệm nếu bằng tình niệm thì thành Phật đã lâu”.

Chư Phật cùng với Hiền thánh ứng hiện ở thế gian, tất cả đều vì phục vụ chúng sinh, nên mới gọi là “cứu khổ ban vui”, khởi lòng từ giúp đỡ. Các ông và tôi cần nên “Khắc kỷ phục lễ” làm việc không vì sự thọ hưởng của mình. Được vậy, chúng ta ai cũng đều không khốn khổ, làm việc gì cũng có thể hoàn tất. Đồng thời, bản thân các ông cũng nhờ đó mà được quả thù thắng viên mãn.

Như khi nước sông dâng thì thuyền cũng được dâng cao, các ông nếu biết dùng tâm từ bi, lòng cung kính đối với mọi người, không tự cao tự đại, không kiêu ngạo giả dối thì mọi người nhất định sẽ cung kính lễ độ đối với ông. Ngược lại, nếu ỷ tài coi thường thiên hạ, hoặc miệng nói phải mà tâm làm quấy, chỉ biết toan tính danh lợi theo thinh sắc, thì cho dù người đời có cung kính ông, e chỉ là giả dối mà thôi.

Thế nên, Đức Khổng Tử nói: “Kính người thì được ngươi kính. Yêu người thì được người yêu”. Lục Tổ dạy: “Người quấy ta đừng quấy, mình sai thì nên sửa sai”. Cho nên tất cả chúng ta, điều cần nhất là chớ sinh tâm thị phi, khởi lòng phân biệt mình người, nên noi gương chư Phật và Bồ tát mà phụng sự chúng sanh, thì hạt giống bồ đề sẽ được gieo rắc khắp nơi, quả ngọt lúc nào cũng thu hoạch được. Phiền não tự nhiên trói buộc các ông chẳng nổi.

Đức Thế Tôn dạy nhiều đến Tam tạng, Mười hai bộ Kinh… tất cả đều vì ba độc Tham, Sân, Si của tôi và các ông. Điều trọng yếu của Tam tạng và Mười hai bộ Kinh là Giới, Định, Huệ tức là nhân quả, cốt để chúng ta ngăn trừ tham dục, khởi lòng hỷ xả, thực hành Lục độ vạn hạnh, phá bỏ tà kiến ngu mê, viên mãn trí huệ, đức tướng, trang nghiêm pháp thân công đức. Nếu có thể y theo đây xử thế, vì người, lợi người thì dù ở bất cứ nơi nào cũng là thế giới Hoa tạng cả.

Ngày hôm nay, người tham dự đả thất phần đông là cư sĩ, chúng ta cần phải khéo léo hàng phục tâm mình, khẩn thiết trừ bỏ những thứ trói buộc. Tôi xin nói thêm một công án để làm gương, bởi vì các ông đều là những người phát lòng tin mãnh liệt muốn đến chỗ chứa kho tàng. Tôi nếu không cho các ông giải thoát, sợ các ông không đến được chỗ có kho báu, trở về tay không thì khó tránh khỏi việc làm phụ lòng tin các ông. Mong các ông tĩnh tâm lắng nghe.

“Thuở trước, thời Đường có một cư sĩ tên Uẩn họ Bàng, tự là Đạo Huyền, người đất Hoành Dương, Hổ Nam. Cư sĩ vốn theo nghiệp Nho, thuở nhỏ đã ngộ được trần lao nên nuôi chí cầu đạo chân thật… Niên hiệu Trinh Nguyên năm đầu (785), ông nghe danh Hòa thượng Thạch Đầu bèn đến yết kiến, hỏi rằng: – “Ai là người không cùng muôn pháp làm bạn?”. Thạch Đầu liền lấy tay bịt miệng ông. Bàng Uẩn ngay đó có chút tỉnh ngộ. Một hôm, Hòa thượng Thạch Đầu hỏi: “Ông từ khi gặp lão Tăng đến nay, hằng ngày làm việc gì?” Bàng thưa: “Nếu hỏi việc hằng ngày thì không có chỗ mở miệng”. Rồi trình bài kệ như thế này:

Nhật dụng sự vô biệt Duy ngô tự ngẫu hài Đầu đầu phi thủ xả Xứ xứ một trương quai Chu tử thùy vi hiệu Khưu sơn tuyệt điểm ai Thần thông tinh diệu dụng Vận thủy cập ban sài.

Hằng ngày không việc khác Tôi chỉ sống tùy duyên Mọi việc không thủ xả Nên chẳng gặp phải phiền Tía hồng mặc người gọi Núi gò bặt bụi trần Bửa củi là diệu dụng Gánh nước là thần thông.

Thạch Đầu chấp nhận và hỏi:

– Ông muốn xuất gia hay tu cư sĩ?

Bàng nói:

– Xin cho con được giữ nguyện không xuất gia.

Về sau, Bàng đến tham vấn Mã Tổ hỏi:

– Ai là người chẳng cùng muôn pháp làm bạn?

Tổ đáp:

– Đợi ông uống một hớp cạn dòng Tây Giang, ta sẽ nói cho ông biết.

Bàng liền đốn ngộ huyền chỉ, ở lại tham học với Mã Tổ hai nàm.

Cư sĩ từ khi tham thấu được “bản lai nhân” về sau không làm gì nữa, từ sáng đến chiều chỉ chuyên đan sáo tre để mưư sinh, gia tài có đến muôn quan, tiền vàng tiền bạc, ông đem liệng hết xuống sông Tương. Một hôm, hai vợ chồng cùng ngồi bàn luận về pháp vô sinh, ông bảo:

– Nan nan nan, thập thạch du ma thọ thượng than.

(Khó khó khó, mười tạ dầu mè trên đầu cây vuốt)

Bà vợ nói:

– Dị dị dị, bách thảo đầu thượng Tổ sư ý

(Dễ dễ dễ, trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư)

Cô con gái tên Linh Chiếu nghe cha mẹ bàn, cười nói:

– Dã bất nan, dã bất dị, cơ lai ngật phạn, khốn lai thùy.

(Cũng không khó, cũng không dễ, đói ăn cơm, mệt ngủ khì).

Từ đó, biện tài ông càng sắc bén, tiếng đồn vang dội khắp nơi. Một hôm, ông đến thăm Dược Sơn, lúc từ giả, Dược Sơn sai mười vị thiền khách tiễn ông ra cửa, ông chỉ tuyết lơ lửng giữa trời nói:

– Tuyết đẹp! Từng mảnh, từng mảnh không rơi vào chỗ khác.

Một Thiền khách tên Toàn hỏi:

– Rơi ở đâu?

Ông cho Toàn một bạt tai. Toàn nói:

– Cũng chẳng nên lếu láo.

Ông bảo:

– Sao gọi là Thiền khách? Lão Diêm la chưa tha cho ông đâu!

Toàn nói:

– Cư sĩ làm gì vậy?

Ông lại tát tai nói:

– Có mắt như mù, có miệng như câm.

Bàng còn lui tới những chỗ giảng Kinh Luật. Một hôm, nghe vị pháp sư giảng Kinh Kim Cang, đến chỗ “không ngã không nhân”, liền hỏi: “Thưa Tọa chủ, đã không ngã không nhân thì ai giảng ai nghe vậy?”. Tọa chủ không đáp được. Ông bảo: – “Tôi tuy là người thế tục nhưng cũng biết được chút đỉnh” Tọa chủ hỏi: “Theo ý cư sĩ thì thế nào?” ông dùng kệ đáp:

Vô ngã phục vô nhân Tác ma hữu sơ thân Khuyến quân hưu lịch tọa Bất tợ trực cầu chân Kim Cang Bát Nhã tánh Ngoại tuyệt nhất tiêm trần Ngã văn tịnh tín thọ Tổng thị giả danh trần.

Không ngã lại không nhân Làm gì có sơ, thân Khuyên Thầy đừng ngồi mãi Đâu bằng thẳng cầu chân Tánh Kim Cang Bát Nhã Chẳng dính một mảy trần Tôi nghe và tin nhận Thảy đều giả đanh trần.

Tọa chủ nghe xong hoan hỷ khen ngợi.

Một hôm, cư sĩ hỏi Linh Chiếu:

– Người xưa nói: “Rõ ràng đầu trăm cỏ, rõ ràng ý Tổ sư”, con hiểu như thế nào?

Linh Chiếu nói:

– Ông già đã lớn tuổi rồi mà còn nói như vậy.

Cư sĩ hỏi:

– Con thì sao?

Chiếu đáp:

– Rõ ràng đầu trăm cỏ, rõ ràng ý Tổ sư.

Long Uẩn cười.

Lúc sắp nhập diệt, ông bảo Linh Chiếu:

– Con ra xem mặt trời đã đứng ngọ chưa?

Linh Chiếu bước ra xem rồi quay vào nói:

– Trời đã đúng ngọ nhưng lại bị nguyệt thực, sao cha không ra xem thử?

Cư sĩ tưởng là thật, rời tòa ngồi ra cửa xem. Trong lúc ấy Linh Chiếu liền lên tòa của cha ngồi kiết già chấp tay thị tịch. Cư sĩ trở vào thấy Linh Chiếu đã mất than rằng: “Con gái lanh lẹ quá, đi trước ta rồi!” Ông đành hoãn lại bảy ngày nữa.

Quan Châu Mục là Vu Công đến thăm bệnh ông. Cư sĩ bảo: “Chỉ mong không các cái có, cẩn thận đừng cho những cái không là thật. Khéo sống giữa đời, tất cả như bóng vang”. Nói xong ông nằm gác đầu trên gối Vu Công mà hóa. Theo lời di chúc, người ta mang thi hài ông đem thiêu và đổ tro xuống sông Tương. Bà vợ ông được tin liền báo cho con trai hay. Cậu con trai nghe nói đứng chống cuốc, tựa trán vào đó mà tịch. Bà mẹ thấy vậy cũng tự ẩn đi”.

Các ông xem, cả nhà họ Bàng gồm bốn người, đều có được những thần thông diệu dụng như thế, đủ để các ông tin là làm cư sĩ cao quí biết bao! Bây giờ, chớ nói là trong hàng cư sĩ các ông không có nhân tài giống vậy, mà cả hai chúng xuất gia, cũng chẳng khác gì Hư Vân này. Mong các ông hãy nỗ lực, tinh tấn.

THẤT THỨ NHẤT HOÀN MÃN

Rằm tháng giêng, Quý TỊ (28/2/1953)

Xin chúc mừng quí vị công đức bảy ngày hôm nay đã viên mãn, những ai đã chứng ngộ, chiếu theo quy củ nên thăng đường để khảo thí. Hôm nay, mới thật là một ngày yết bản, cần phải vui mừng. Nhờ Thường trụ quá từ bi nên sáng mai lại tiếp tục đả thất nữa, giúp cho chúng ta có thể gắng công tiến bước. Chư vị lão tham đều đã biết đường, gặp thắng duyên đều không bỏ thời giờ trôi suông. Riêng các vị mới phát tâm tu tập cần phải biết: “Thân người khó được, sinh tử là việc lớn”. Chúng ta đã được thân người, phải hiểu là Phật pháp khó được nghe, bậc thiện tri thức không dễ gặp. Hôm nay chư vị đã đích thân đến bảo sơn, nên nương duyên lành này nỗ lực tu, chớ để trở về tay không. Pháp trong tông môn, tôi đã giảng qua, lúc Đức Thế Tôn đưa cành hoa trước đại chúng, từ đời này sang đời khác đều từ cội nguồn đó mà lưu truyền đến ngày nay. Tôn giả A-nan tuy là em Phật, theo Phật xuất gia làm thị giả nhưng lúc Phật trụ thế vẫn chưa đại triệt đại ngộ. Đến khi Phật diệt độ rồi, các huynh đệ không bằng lòng cho Tôn giả vào dự hội kết tập Kinh. Ngài Ca-diếp bảo: “Ông chưa được tâm ấn của Thế Tôn, xin mời ra lật ngược cây cột cờ ở trước sân kia!”… Ngài A-nan liền đại ngộ. Tôn giả Ca-diếp bèn đem tâm ấn của Như Lai giao cho ngài A-nan làm vị Tổ thứ hai ở Ân Độ, trải qua nhiều đời đến tổ Mã Minh, Long Thọ sau này.

Đời Bắc Tề, ngài Thiên Thai nhân xem quyển Luận Trung Quán của Tổ Long Thọ, liền phát minh tâm địa lập ra Tông Thiên Thai. Bấy giờ Tông môn đặc biệt hưng thạnh, về sau, Tông Thiên thai bị suy vi. Đến Quốc sư Thiều, nhân xem được bản phiên dịch của Cao Ly mới hưng khởi lại.

Sư Đạt-ma là vị Tổ thứ 28 ở Ấn Độ, sang miền Đông truyền pháp ,làm vị Tổ đầu tiên Trung Hoa. Từ đó truyền đến Ngũ Tổ, thắp sáng đèn tâm. Dưới Lục Tổ có 43 người được khai ngộ. Từ ngài Thanh Nguyên Hành Tư, Nam Nhạc Hoài Nhượng truyền đến Mã Tổ, lại xuất hiện 83 người, chánh pháp được chấn hưng, quốc vương, đại thần thảy đều tôn kính. Cho nên Như Lai thuyết pháp tuy nhiều nhưng chỉ có Tông này là vượt trội nhất.

Như pháp môn niệm Phật cũng do Ngài Long Thọ, Mã Minh tán dương. Sau thời Tổ Huệ Viên, Thiền Sư Vĩnh Minh Diên Thọ cũng là vị Tổ thứ sáu của tông Tịnh Độ. Sau này Tịnh Độ Tông cũng nhờ các Thiền Sư hoằng dương.

Còn pháp tu Mật tông do Thiền sư Nhất Hạnh hoằng dương, sau truyền sang Nhật Bản, nước ta không có người thừa kế.

Tông Từ Ân (Pháp Tướng) do Pháp sư Huyền Trang sáng lập chẳng bao lâu thì dứt tuyệt. Chỉ có Thiền tông nguồn xa dòng lớn, thiên thần đến quy y, cọp rồng đều nép phục. Lữ Đồng Tân trong hội Bát tiên, có biệt hiệu là Thuần Dương, là người Kinh Châu. Vào cuối đời Đường, ông đi thi ba lần chẳng đậu, bèn quay về nhà. Lúc ghé vào quán rượu Trường An, tình cờ gặp Chung Ly Quyền dạy cho thuật trường sinh. Đồng Tân bèn theo pháp đó tu hành, về sau bay đi tự tại, vân du khắp thiên hạ.

Một hôm ông đến chùa Hải Hội ở Lô Sơn, viết lên vách lầu chuông bốn câu kệ:

Nhất nhật thanh nhàn tự tại thân Lục thần hòa hợp bảo bình an Đan điền hữu bảo hưu vấn đạo Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.

Ngày một thanh nhàn thân tự tại Sáu thần hòa hợp báo bình an Đan điên có ngọc thôi hỏi đạo Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.

Chẳng bao lâu ông đi ngang núi Hoàng Long, thấy mây đẹp giăng như hình chiếc lọng, nghĩ có bậc dị nhân ở đây, bèn vào yết kiến. Gặp lúc chuông trống gióng vang, ngài Hoàng Long thăng tòa, Lữ bèn theo mọi người vào Pháp Đường nghe giảng.

Hoàng Long nói:

– Hôm nay có kẻ đến trộm pháp, lão Tăng không nói đâu.

Đồng Tân bèn bước ra thi lễ, nói:

– Thế nào là trong một hạt thóc chứa cả thế giới, trong cái chảo nửa thăng nấu cả núi sông?

Ngài Hoàng Long mắng:

– Đó là đồ quỷ giữ thây.

Đồng Tân nói:

– Làm sao trong chiếc túi này lại có thuốc trường sinh bất tử?

Hoàng Long bảo:

– Dù có sống tám muôn kiếp, chưa khỏi lạc vào ngoan không.

Đồng Tân quên béng cái công phu “Đối cảnh vô tâm chẳng hỏi Thiền”, nổi sân bừng bừng, phóng kiếm chém ngài Hoàng Long. Hoàng Long đưa tay chỉ một cái, kiếm rơi xuống đất. Đồng Tân không lượm kiếm lên được bèn lễ bái xin sám hối, thưa hỏi Phật pháp, ngài Hoàng Long nói:

– Không hỏi chuyện chiếc chảo nửa thăng nấu cả núi sông, chỉ hỏi: Trong một hạt thóc chứa cả thế giới là thế nào?

Đồng Tân ngay đây liền khế hội huyền chỉ, đọc bài kệ sám hối:

Khí khước biểu nang kích toái cầm Tùng kim bất luyến hống trung kim Tự tùng nhất kiến Hoàng Long hậu Thủy giác đương niên thác dụng tâm.

Bỏ quách bị bao, đập nát đàn Từ nay chẳng thiết luyện bạc vàng Sau khi gặp được Hoàng Long dạy Mới biết lâu nay dụng công lầm.

Đó là chuyện một vị Tiên qui y Tam bảo, xin gia nhập vào hàng Hộ pháp Già-lam. Đạo giáo nhờ tay của Đồng Tân mà được hưng khởi, làm Bắc Ngũ Tổ. Tử Dương chân nhân nhờ xem Tổ Anh Tập mà sáng được tâm địa, làm Nam Ngũ Tổ. Cho nên Đạo Lão cũng là một Tông môn tiếp nối theo của Phật giáo vậy.

Đạo của Đức Khổng Tử đến Mạnh Tử thì bị thất truyền. Mãi đến triều Tống, ông Chu Liêm Khễ phát minh được tâm địa nơi cửa Thiền, ông Trình, ông Trang, ông Chu đều theo Phật pháp. Thế nên Tông môn đã có công giúp cho Nho, Đạo mọi thời cơ. Hiện nay nhiều người khinh thị Thiền tông, thậm chí còn hủy báng, thật là tạo nghiệp vô gián. Các ông và tôi hôm nay có duyên lành, gặp được nhân duyên thù thắng, cần phải sinh lòng đại hoan hỷ, phát thệ nguyện lớn, mọi người nên thực hành đến chỗ trời rồng phải quy y, khiến cho chánh pháp được hưng thịnh mãi, chớ xem như trò đùa trẻ con. Hãy tinh tấn dụng công.

NGÀY ĐẦU TIÊN, THẤT THỨ HAI

16 tháng Giêng Quí Tỵ (1/3/1953)

Hư Vân này đến đây quấy rối quý vị. Nhờ Hòa thượng cùng các vị Sư Ban thủ đặc biệt ưu đãi. vì quá khao khát nên hôm nay lại mời tôi làm chủ Pháp hội. Cái danh dự này thật tình tôi không dám đảm nhận.

Hiện có Lão pháp sư Ứng Từ, tuổi cao hạ lớn, lẽ ra phải mời Ngài đến lãnh đạo mới đúng lý. Đồng thời trong chúng thường trụ đây, các vị pháp sư cũng rất đông, đều là những bậc học đức kiêm ưu.

Tôi như cánh bèo trôi trên mặt nước, là một kẻ vô dụng. Hôm nay vì tôi là người lớn tuổi, quý vị lại có lòng hiếu khách, nhưng đây thật là một chuyện lầm lẫn. Bởi trong thế pháp còn không luận tuổi tác lớn nhỏ nữa là…!

Như ngày xưa khi triều đình mở khoa thi tuyển, chẳng luận tuổi nhiều hay ít, đối với vị Chủ khảo mọi người đều phải tôn là Lão Sư (thầy giáo) và ai cũng phải tôn kính, chẳng kể tuổi tác. Trong pháp Phật lại càng hơn thế. Như Bồ Tát Văn Thù, vào thời quá khứ lâu xa về trước đã từng thành Phật, đã từng giáo hóa cho 18 vị vương tử. Đức Phật Thích Ca cũng từng làm đồ đệ của Bồ tát. Đến khi Đức Thích-ca thành Phật, ngài Văn Thù lại thị hiện đến giúp đỡ… đủ để thấy bình đẳng rất mực, không có cao thấp. Cho nên hôm nay, xin quí vị chớ hiểu sai.

Hiện tại về phương diện tham học thì chúng ta cần phải tôn trọng phép tắc qui củ. Trên Thường trụ đã phát khởi đạo tâm, giảng Kinh đả thất, hoằng dương Phật pháp, thật là hi hữu, duyên lành khó có. Quí vị đều không ngại phong trần, chẳng ngại mệt nhọc. Có những vị rất ư bận rộn cũng tự nguyện đến tham gia, đủ để thấy ai cũng có cái tâm chán phiền thích tĩnh. Xưa nay các ông và tôi đều có cùng một tâm. Chỉ vì liên quan đến mê và ngộ nên có chúng sinh và Phật.

Chúng ta suốt ngày bận rộn không một phút giây rỗi rảnh. Nếu có suy nghĩ, chỉ toàn là nghĩ những điều vô ích. Đa số con người sống trên thế gian, cả đời bôn ba, ngày đêm mê muội, luôn mơ tưởng chuyện ăn no mặc ấm, đắm say ca vũ, đa phần mong con cháu mình được giàu sang phú quý, muôn đời vinh hoa. Ngay cả khi hơi thở ra không trở vào, dù họ có chết thành ma, lòng vẫn còn muốn bảo hộ vợ con, tài sản… được hưng vượng. Những người này quả thật là ngu si hết sức! Lại có nhiều người, biết được chút đỉnh thiện ác, nhân quả, muốn tạo công đức, nhưng chỉ biết làm chay cúng dường, hoặc sơn phết tượng Phật hay sửa chùa miếu… đây đều thuộc gieo nhân hữu lậu, mong cầu phước báo đời sau. Vì họ không hiểu được sự quí báu của công đức tu hành (vô lậu) nên mới bỏ qua không thực hành.

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói: “Nếu có người chỉ ngồi tĩnh tọa trong khoảnh khắc, còn hơn kẻ xây tháp bảy báu hằng sa”. Bởi vì pháp ngồi tĩnh tọa có thể giúp chúng ta thoát ly trần lao, khiến thân tâm an lạc, tự tánh được viên minh, liễu sinh thoát tử. Trong khoảnh khắc tức là trong thời gian một sát-na, nếu người dùng tâm thanh tịnh, phản chiếu hồi quang, ngồi trong khoảnh khắc, dù chẳng ngộ đạo nhưng đã gieo được hạt giống chánh nhân Phật tánh, thế nào cũng có ngày thành tựu, hoặc trong khoảnh khắc công phu đắc lực cũng có thể thành Phật. Cho nên trong Kinh Lăng Nghiêm, Tôn giả A Nan nói: “Không cần trải qua vô số kiếp mà được pháp thân”.

Chỉ vì tôi và các ông cùng bao người, bình thường toàn ở trong ngũ dục, trần lao, mừng vui theo được mất, toàn mưu toan hưởng lạc. Nhưng hôm nay, ở Thiền Đường này, trong thời gian chỉ tịnh. Dòm không thấy, lắng chẳng nghe, đối với cửa sáu căn cũng giống như con rùa co rút hết các chi vào vỏ, mặc tình cảnh giới quấy nhiễu, các ông cũng bất động, tức là tu pháp vô vi, cũng là pháp vô lậu. Cho nên dùng bảy báu như vàng bạc… để xây tháp dầu nhiều như cát sông Hằng, vẫn không bằng công đức một khoảnh khắc ngồi yên nhiếp tâm.

Con rùa đen rút hết các chi vào mai là một thí dụ. Bởi vì loài hái cẩu săn mồi, thấy rùa đang bò trên bãi biển, bèn bắt lấy định ăn. Rùa biết hải cẩu muốn ăn thịt mình, bèn rút hết bốn chân, đầu, đuôi vào mai. Hải cẩu thấy không làm gì được rùa, chỉ mất công cay đắng liền bỏ đi. Bấy giờ rùa được thoát nạn. Chúng ta sống trên thế gian này, những người không tiền thì suốt đời bận rộn chuyện áo cơm, kẻ giàu sang thì đắm say sắc dục không rứt ra được. Thế thì cũng giống như bị hải cẩu bắt ăn thịt. Nếu hiểu được sự nguy hại và biết thu nhiếp sáu căn, hồi quang phản chiếu, thì có thể trong cái chết được sống lại.

Hai ngày trước tôi có nói qua về chánh pháp nhãn tạng, là tâm pháp Như Lai, là căn bản của viêc liễu sinh thoát tử. Pháp môn giảng Kinh, tuy là giúp người phát khởi lòng tin, nhưng muốn liễu sinh tử thì cốt yếu vẫn là bản thân phải trải qua việc tu hành chứng ngộ, đây là điều rất khó. Trong tông môn không những các Tỳ kheo và hàng Cư sĩ có công hạnh không thể nghĩ bàn, mà trong giới Tỳ kheo ni cũng có những bậc nhân tài vĩ đại.

Hiện nay trong quí vị cũng có nhiều Ni chúng. Vì sao không hiển tay mắt biểu hiện chánh pháp thay cho tiền nhân? Nên biết Phật pháp bình đẳng, các vị phải nỗ lực, không nên sinh lòng lui sụt, làm uổng phí duyên lành.

Người xưa nói: “Bách niên tam van lục thiên nhật. Bất phóng thân tâm tĩnh phiến thời” (Trăm nám ba vạn sáu ngàn ngày. Chẳng chịu buông hết thân tâm cho yên tĩnh?). Các ông cùng tôi từ vô lượng kiếp đến nay trôi nổi trong sinh tử, chỉ vì không chịu buông nên cam chịu luân hồi, chẳng được giải thoát.

Vì vậy các ông cần phải buông bỏ thân tâm đến chỗ yên tĩnh, hy vọng là thùng sơn lũng đáy cùng chứng vô sanh pháp nhẫn.

NGÀY THỨ HAI, THẤT THỨ HAI

17 tháng Giêng, Quí Tỵ (2/3/1953)

Hôm nay là ngày thứ Hai của thất thứ Hai, trong thời gian ngắn ngủi này quí vị đến tham gia càng ngày càng đông, đủ thấy dân Thượng Hải thiện tâm thuần thục, phước đức sâu dày, và cũng đủ thấy mọi người đều chán phiền thích tĩnh, muốn bỏ khổ theo lạc.

Xưa nay, con người sinh ra trên đời khổ nhiều vui ít. Thời gian trôi nhanh, mấy chục năm dài loáng qua như chớp mắt. Dù có sống lâu đến 800 tuổi như cụ Bành Tổ thì nhìn theo pháp Phật vẫn còn rất ngắn. Hãy xem trong đời những người sống được 70 tuổi xưa nay thật hy hữu. Các ông và tôi đến nay đã chứng kiến bao cảnh ngắn ngủi như huyễn như hóa nên không còn lưu luyến. Những vị đã đến tham gia thiền thất này quả thật đã có căn lành đời trước, Pháp tu hành chỉ quí ở tâm lâu bền.

Tất cả chư Phật và Bồ tát trong quá khứ không ai mà không trải qua nhiều kiếp tu hành mới được thành công.

Trong Kinh Lăng Nghiêm, nơi Chương Viên Thông, Bồ Tát Quán Thế Âm nói: “Con nhớ lại trong vô số hằng sa kiếp về trước, có Đức Phật xuất hiện trên đời tên là Quán Thế Âm. Con ở nơi Đức Phật đó phát tâm Bồ đề. Ngài dạy con hành theo pháp Văn, Tư, Tu mà vào tam muội“.

Dẫn đoạn Kinh này để thấy Bồ Tát Quán Thế Âm không phải ngày một ngày hai mà thành. Đồng thời Ngài còn công khai đem pháp môn đã tu, giảng cho chúng ta nghe. Đây là pháp đệ nhất trong 25 pháp viên thông trên Hội Lăng Nghiêm. Cách dụng công của Ngài là nhờ Văn, Tư, Tu mà vào được tam muội Nhĩ căn viên thông (nước ta gọi là Chánh định). Ngài nói tiếp: “Mới đầu ở nơi tánh nghe, vào dòng thì quên mất”. (Sơ ư văn trung, nhập lưu vong sở).

Phương pháp này là đem nhĩ căn nghe trở lại tự tính (phản văn văn tự tánh), chẳng để sáu căn chạy theo sáu trần, cần thâu nhiếp sáu căn vào trong pháp tánh. Cho nên Ngài nói: “Chỗ vào đã tịch tĩnh thì hai tướng động tịnh tất nhiên chẳng sinh” (Sở nhập ký tịch, động tĩnh nhị tướng liễu nhiên bất sinh).

Lai nói: “Như thế tăng dần lên, cái nghe và cái bị nghe đều hết, nhưng cũng chẳng trụ nơi chỗ hết nghe này”. Câu này có ý nhắc chúng ta đem cái công phu “phản văn” chẳng để ngưng trệ mà phải thứ lớp tăng dần lên, cần gia tăng thêm công hạnh mới được: “Giác và sở giác đều không. Giác được cái không đã viên mãn rồi thì năng không và sở không đều diệt, Sinh diệt diệt rồi thì tịch diệt hiện tiền” Đến cảnh giới này là tự đem công phu phản văn văn tự tánh, tất cả những thứ sinh diệt diệt hết rồi, thì chân tâm hiện tiền. Tức là nói: “Cuồng tâm chợt dừng, dừng tức Bồ dề”. Bồ tát Quán Thế Âm đã đến cảnh giới này, Ngài nói: “Bỗng nhiên siêu việt khỏi cảnh giới của thế gian và xuất thế gian. Mười phương tròn sáng, được hai điều thù thắng:

  1. Trên hợp với bản tâm diệu giác của chư Phật, đồng một lực tu với Đức Như Lai.
  2. Dưới hợp mười phương sáu đường chúng sanh, cùng các chúng sinh đồng một tâm bi ngưỡng.

Chúng ta hôm nay, học Phật tu hành, trước hết phải tự mình dụng công phu cho tốt, đem hết những tính chúng sinh như tham, sân, si… độ tận hết. Chứng được chân tâm diệu giác thanh tịnh xưa nay, rồi sau mới “Thượng hành hạ hóa“ như 32 ứng thân của Bồ tát Quán Âm, mới có sức mạnh và năng lượng tùy loài hóa độ. Cho nên Bồ tát Quán Âm hoặc hiện thân đồng nam, đồng nữ ở thế gian, người đời không biết công hạnh của Bồ tát Quán Thế Âm là đã thành Phật, không còn các tướng nam, nữ, ngã, nhân… Ngài chỉ tùy theo căn cơ chúng sinh mà ứng hiện.

Những ai nghe danh Bồ tát Quán Thế Âm mà khởi lòng thương kính, là do trong đời quá khứ họ đã từng trì niệm Thánh hiệu của Ngài. Hạt giống lành này đã có sẵn trong ruộng Bát thức nên gặp duyên là hiển hiện. Bởi vậy Kinh nói: “Vừa vào nhĩ căn thì vĩnh viễn thành hạt giống đạo”. (Nhất nhập nhĩ căn, vĩnh vi đạo chủng).

Các ông và tôi hôm nay đến đây huân tu, cần phải y nơi pháp Tối thượng thừa mà chư Phật Bồ Tát đã tu đã chứng. Phương pháp hiện tại này là phải sáng tỏ được bản tâm diệu giác, tức “kiến tánh thành Phật”. Nếu như không sáng tỏ được tâm địa thì Phật không thể thành, nên cần phải sáng tâm địa. Muốn sáng tâm, việc đầu tiên là phải hành thiện đạo. Chúng ta từ sáng đến tối, các điều ác chớ làm, các điều thiện hằng làm thì phước đức tự tăng trưởng, thêm một câu thoại đầu thường đề khởi, một niệm chẳng sinh, lập tức thành Phật. Chư vị nên nắm lấy thời gian, chớ tạp dụng tâm, hãy khéo léo tu đi!

NGÀY THỨ BA, THẤT THỨ HAI

18 tháng Giêng, Quí Tỵ( 3/3/1953)

Hôm nay, ngày thứ ba của thất thứ hai lại sắp trôi qua mất, những vị công phu đã thuần thục, trong lúc động tĩnh đều nắm vững được thì không còn lòng dạ đâu để phân biệt thất thứ nhất hay thất thứ hai, là ba ngày hoặc hai ngày?… Chỉ những người mới phát tâm thì cần phải nỗ lực tinh tấn, không nên lơ là để thời giờ trôi qua đáng tiếc.

Tôi nay lại kể thêm một ví dụ cho những người mới phát tâm, mong các ông khéo lắng nghe. Trong Thiền Đường các nơi đều có thờ một vị Bồ tát, là vị thánh Tăng, đệ tử lớn của Đức Phật Thích Ca, tức tôn giả A-nhã-kiều-trần-như. Khi Thế Tôn đi xuất gia, phụ vương Ngài có sai ba người bên họ cha cùng hai người bên họ mẹ vào Tuyết Sơn chăm sóc Ngài. Tôn giả là một trong hai người thuộc họ mẹ. Sau khi Thế Tôn thành đạo, ban sơ Ngài đến vườn Lộc Uyển, vì nhóm các ông Kiều-trần-như thuyết pháp Tứ đế. Tôn giả là người ngộ đạo đầu tiên, đồng thời cũng là vị đệ tử xuất gia đầu tiên trong hàng đệ tử lớn của Đức Thế Tôn nên mới gọi là thánh Tăng, cũng gọi là Tăng thủ (bậc thượng thủ trong hàng Tăng chúng). Phương pháp tu hành của Ngài, trong Kinh Lăng Nghiêm có nói rất rõ:

“Ta lúc mới thành đạo, ở trong vườn Nai hỏi các Tỳ kheo A-nhã-kiều-trần-như… cùng bốn chúng rằng: “Tất cả chúng sanh do bị khách trần phiền não làm mê hoặc. Các ông đương thời nhân đâu mà được khai ngộ, thành Thánh”. Chỗ này Đức Phật hỏi các vị đệ tử lớn trong hội chúng, đã dùng phương pháp gì mà được khai ngộ, thành công? Lúc bấy giờ tôn giả A-nhã-kiều-trần-như ở trong hội chúng đứng dậy đáp lời Thế Tôn rằng:

“Con nay đã lớn tuổi, ở trong đại chúng được xem là đã giải thoát, nhờ con ngộ được hai chữ Khách, Trần mà thành chánh quả”.

Sau khi trình xong, Tôn giả giải thích thêm: “Bạch Thế Tôn, ví như có vị khách bộ hành đi vào một quán trọ để nghỉ ngơi và ăn uống; khi đã nghỉ ngơi ăn uống xong, thì xách túi lên đường không ở lại đó. Còn nếu thật là người chủ thì không có đến đi chi cả. Vì vậy con nghĩ “Chẳng trụ lại thì là Khách, còn thường trụ là Chủ? Cũng giống như lúc trời vừa tạnh mưa, vầng dương xuất hiện, ánh sáng chiếu xuyên qua kẽ tường, con phát hiện ra trong hư không có các hạt bụi li ti, những hạt bụi này xao động nhưng hư không thì vẫn tịch nhiên. Nên con nghĩ: “Tịch tĩnh là hư không, loạn động là trần, vì chúng lao xao động nên gọi là trần”.

Trong đoạn văn trên, Tôn giả đã mang hai chữ Chủ, Khách ra nói rõ ràng biết bao. Trong thí dụ này, Tôn giả đã dạy cho chúng ta biết phương pháp hạ thủ dụng công: “Chơn tâm của chúng ta chính là ông chủ, ông chủ này vốn bất động. Phần dao động tức là khách, là vọng tưởng, vọng tưởng cũng như bụi. Do bụi rất nhỏ nên trong lúc nó bay lăng xăng cần phải có ánh mặt trời chiếu qua ta mới thấy được chúng”. Ý nói vọng tưởng trong tâm chúng ta trong lúc bình thường, ta khởi tâm động niệm khó mà nhìn thấy nhận biết được. Phải đợi lúc ta tĩnh tọa, tu hành, tâm an trí sáng, ta mới có thể nhìn rõ những tạp niệm lăng xăng đang khởi diệt không ngừng trong tâm ta.

Những lúc vọng niệm sôi sục như thế, nếu công phu của quý vị không đắc lực, chẳng làm chủ được, thì không ngộ đạo, nên phải trôi lăn trong biển sanh tử: Đời này họ Trương, đời sau họ Lý… giống như người khách đi vào quán trọ trụ lại không được bao lâu. Còn chân tâm thường trụ bất động của chúng ta thì không như thế. Chẳng đến chẳng đi, chẳng sinh chẳng diệt. Vì thường trụ bất động nên mới gọi là chủ nhân. Ông chủ này ví như hư không. Còn hoa bụi thì bay nhảy lăng xăng song hư không vẫn tịch nhiên bất động. Giống như người chủ quán trọ, lúc nào cũng thường trực, không đi đâu khác.

Nói về danh tướng, thì Trần tức là trần sa (cát bụi) là một thứ phiền não mà phải đến địa vị Bồ tát mới đoạn được. Vọng tức là vọng hoặc (mê lầm). Hoặc có Kiến hoặc gồm 88 kiết sử và Tư hoặc có 81 loại. Kiến hoặc do Ngủ độn sử mà có. Người tu hành trước hết phải đoạn sạch Kiến hoặc, mới có thể chứng quả Tu-đà-hoàn. Để trừ sạch Kiến Hoặc phải dụng công hết sức khó khăn (cũng giống như ngăn dòng thác dài 40 dặm), đủ thấy sự dụng công của chúng ta cần phải có sức mạnh rất lớn. Phải đoạn sạch hết Tư hoặc mới chứng quả A La Hán được, vì vậy mà sự dụng công cần theo thứ lớp.

Chúng ta hiện nay chỉ mượn một câu thoại đầu, linh linh bất muội, liễu liễu thường tri, Kiến hoặc hay Tư hoặc gì cũng chặt một dao cho đứt làm hai khúc, giống như bầu trời xanh không gợn một phiến mây, khi vầng dương xuất hiện thì ánh sáng tự tánh hiện bày. Vị Tôn giả này đã ngộ được cái đạo lý ấy, đã nhận biết được ông chủ vốn có sẵn. Tôi và các ông ngày hôm nay ở bước đầu dụng công, cần phải hiểu cho thấu đáo về Khách, Trần. Khách, Trần là những gì dao động còn chủ thì bất động. Nếu chẳng hiểu rõ thì không biết chỗ hạ thủ công phu, vẫn bỏ thời giờ trôi suông như trước. Mong các ông lưu tâm dụng công!

NGÀY THỨ TƯ, THẤT THỨ HAI

19 tháng Giêng, Quí Tỵ (4/3/1953)

“Pháp vô thượng sâu xa vi diệu, trăm nghìn muôn kiếp khó gặp đưgc”. Lần trở về chùa Ngọc Phật tham dự tuần đả thất này, thật là một nhân duyên thù thắng. Chư vị thiện nam tín nữ ở mọi nơi đều hăng hái đến tham gia, gieo trồng chánh nhân thành Phật. Có thể nói là hy hữu khó được. Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có nói: “Nếu người tâm tán loạn, bước vào trong tháp miếu, vừa niệm Nam mô Phật, đều trọn thành Phật dạo”. (Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng Nam mô Phật, giai cộng thành Phật đạo).

Người ta sống ở trên đời, mấy chục năm trôi qua nhanh như chớp mắt mà chẳng biết chẳng hay. Trong thời gian đó những kẻ có tiền thì đắm say tửu sắc tài vật, người không tiền thì bị chuyện ăn, mặc chi phối, bôn ba khổ nhọc, ít có ai được tự tại thanh nhàn. Thật là khổ không nói được! Chỉ có những người tình cờ đi đến cửa Phật, thấy cảnh chùa trang nghiêm tịch tĩnh, lòng sinh hoan hỷ, hoặc thấy hình tượng của Phật và Bồ Tát mà buộc miệng thốt ra danh hiệu Phật, hoặc lòng sinh thanh tịnh mà sinh cảm động, tán thán khen ngợi sự cát tường của Như Lai, cho là hi hữu. Tất cả những người này đều đã trồng căn lành rất sâu trong đời quá khứ nên nhờ vậy mà sẽ được thành Phật. Bởi vì chúng ta trong lúc bình thường mắt thấy phong hoa tuyết nguyệt, tai nghe tiếng đàn ca hát xướng, miệng mê đắm các thức cao lương mỹ vị… tư tưởng đều bị nhiễm. Chính cái tư tưởng bị nhiễm này là tâm tán loạn, tâm sinh tử, tâm hư vọng. Ngày hôm nay ta có thể ở nơi chùa tháp,niệm một danh hiệu Phật, đây chính là tâm giác ngộ, tâm thanh tịnh, là hạt giống Bồ đề thành Phật.

Phật, tiếng Phạn gọi là Phật Đà, tiếng Trung Hoa dịch là Giác Giả (người giác ngộ). Giác nên chẳng mê. Tự tánh thanh tịnh, tức là tâm giác ngộ. Chúng ta hôm nay không vì danh lợi mà đến, cũng là do tác dụng của lực giác ngộ. Có nhiều người nghe nói “Đả thiền thất“, liền sinh lòng sợ, bởi không hiểu ý nghĩa của pháp “Đả thiền thất”, chỉ vì tò mò mà đến xem khá đông. Đã đến đây rồi thì như người đến núi báu, đừng trở về tay không, mà phải phát đạo tâm vô thượng, cố gắng ngồi cho được một cây hương để gieo cái chánh nhân thành Phật thì trong tương lai các vị sẽ được thành Phật.

Thuở xưa, Đức Thích ca Mâu Ni có một người đệ tử tên là Tu Bạt Đà La. Nhà ông nghèo khổ lại cô độc không họ hàng thân quyến để nương tựa, trong lòng rất sầu muộn, tính theo Phật xuất gia. Một hôm, ông đến chỗ Phật, nhằm lúc Ngài đi vắng. Các vị đệ tử lớn liền quan sát nhân duyên đời trước, thấy trong tám muôn kiếp ông chưa từng gieo trồng căn lành, bèn bảo ông hãy trở về nhà, và từ chối không thu nhận ông vào Tăng đoàn. Tu Bạt buồn lắm, ông đi ra ngoài thành, càng tủi phận mình nghiệp chướng quá sâu, ông nghĩ thầm: “Chẳng thà mình tự tử chết quách…tốt hơn”.

Đang lúc ông loay hoay tìm cách chết thì bỗng gặp Đức Thế tôn đi đến, hỏi han. Tu Bạt trình bày tự sự. Đức Phật bèn nhận ông làm đồ đệ, dẫn về tịnh xá. Trong vòng bảy ngày, ông chứng quả A-la- hán. Các vị Đại đệ tử đều ngạc nhiên, không rõ duyên cớ, thắc mắc hỏi Phật. Thế Tôn dạy:

-Các ông chỉ quán sát được việc xảy ra trong tám muôn kiếp, chứ không thấy được ngoài tám muôn kiếp, Tu Bạt đã từng gieo trồng căn lành. Thuở xa xưa ấy, ông là một kẻ nghèo cùng khốn khổ, làm nghề đốn củi mưu sinh. Một hôm vào núi gặp cọp không biết trốn vào đâu, ông hoảng hốt leo lên cây. Cọp trông thấy ông, chạy đến cắn vòng quanh gốc cây. Thấy cây sắp đổ, ông sợ quá vì không có ai đến cứu, chợt nhớ đến Đức Phật có lòng từ bi, hay cứu giúp các chúng sinh đau khổ, ông bèn kêu lên: “Nam Mô Phật! Xin hãy cứu con!” Cọp nghe niệm Phật bèn bỏ đi, tha mạng cho ông. Do hạt giống Phật gieo từ lúc đó, tới nay đã chín mùi nên ông chứng quả.

Chư vị Đại đệ tử nghe Phật giải thích, lòng rất vui mừng, đều khen là hi hữu.

Các vị và tôi ngày nay gặp được nhân duyên thù thắng, có thể ngồi tĩnh tọa hết một cây hương thì nghiệp lành so ra đã vượt hơn Tu Bạt gấp bội. Vì vậy, nghìn muôn lần xin các vị chớ xem đây là trò đùa trẻ con, nếu các vị vì thích náo nhiệt mà tìm đến thì đã lầm rồi vậy!

12

NGÀY THỨ NĂM, THẤT THỨ HAI

20 tháng Giêng, Quí Tỵ (5/3/1953)

Những người đã có đầy đủ lòng tin sâu dày ở trong Thiền Đường này, đương nhiên là đang nỗ lực dụng công, các bậc Thượng tọa, chư sư lão tham, công phu đương nhiên là thuần thục.

Trong số những người thuần thục đó cần phải biết dụng công hồi hổ (quay trở lại), cần phải thấu đến tận nguồn suốt đáy, cần phải sự lý viên dung, cần phải động tịnh vô ngại, chẳng nên cứ ngồi sửng như chết, chẳng nên trầm không chấp tịnh (thủ tịch) đắm trước cảnh an tĩnh. Nếu như đã say đắm cảnh tịnh, không chịu quay trở lại, thì giống như con cá trong nằm trong vũng nước chết (nước đọng) không có hy vọng nhảy đến Long Môn, chỉ là con cá bị nhốt trong băng giá, hoàn toàn vô dụng.

Người mới phát tâm, dụng công cần phải thống thiết. Đối với việc sinh tử, phải sanh lòng hổ thẹn buông hết vạn duyên. Vừa mới dụng công có chút lực lượng mà buông không hết, thì chuyện sinh tử ắt chẳng liễu.

Bởi vì tôi và các ông từ vô thủy đến nay, bị thất tình lục dục mê hoặc. Hiện giờ từ sáng đến chiều thảy đều ở trong thinh sắc qua ngày, không biết gì đến chân tâm thường trụ, cho nên mới bị trầm luân trong biển khổ. Bây giờ các ông và tôi đã giác ngộ, hiểu rằng mọi việc trên thế gian đều khổ não, có thể tận tình buông hết thì lập tức thành Phật.

NGÀY THỨ SÁU, THẤT THỨ HAI

21 tháng Giêng, Quí Tỵ (6/3/1953)

Những vị đến tham dự kỳ đả thất này, theo tôi thấy thì đa số là những thiện nam tín nữ mới phát tâm, cho nên quy củ pháp tắc đều chưa thông, cử chân nhấc bước đều khuấy động đến sự an tĩnh của người. May gặp Thường trụ từ bi, tìm đủ cách trợ giúp chúng ta thành tựu đạo nghiệp. Chư sư Thủ lĩnh đã phát tâm vô thượng đứng ra hướng dẫn, hỗ trợ chúng ta đúng như pháp mà tu hành, cơ hội này quả thật là muôn kiếp khó gặp. Quý vị cần phải dũng mãnh tinh tấn, tu cả trong lẫn ngoài.

Tu bên trong là nhẹ nhàng cử câu thoại đầu “Niệm Phật là ai?”,hoặc niệm một câu “A Di Đà Phật“, chẳng khởi tham sân si… cùng các tạp niệm khác, khiến cho chân tâm pháp tánh được hiển lộ

Tu bên ngoài: là ngăn giết hại, lại phóng sinh. Chuyển Thập ác thành Thập thiện. Từ sáng đến tối không nên uống rượu ăn thịt tạo nên tội nghiệp chất chồng. Phải biết hạt giống Phật là do duyên sinh. Nếu gây ác nghiệp nhiều quá thì chắc chắn phải rơi vào địa ngục. Nhờ bồi đắp Thiện nghiệp thì tự nhiên đời sẽ đưa đẩy cho ông hưởng phúc.

Cổ nhân dạy chúng ta: “Các điều ác chớ làm, các điều thiện vâng làm” tức là đạo lý này vậy. Các vị hãy xem kỹ nguyên do vì sao vua Tỳ Lưu Ly tàn sát hết dòng họ Thích Ca thì rõ. Gần đây nhân dân thế giới gặp nạn là do nghiệp sát quá nặng nên mới chiêu phải quả báo như thế. Vì vậy mà tôi thường khuyên mọi người không nên giết hại mà hãy phóng sinh, ăn chay, niệm Phật… chính là vì muốn cho các vị thoát khỏi sự báo ứng của nhân quả luân hồi. Chư vị cần phải tin sâu, lo gieo trồng căn lành, chân thật tu hành để thành tựu Phật quả.

NGÀY THỨ BẢY, THẤT THỨ HAI

22 tháng Giêng Quí Tỵ (7/3/1953)

Phù sinh nhược mộng Huyễn chất phỉ kiên Bất bằng ngã Phật chi từ Hoạt toại siêu thăng chi lộ.

Kiếp phù sinh như mộng Huyễn chất chẳng được bền Nếu không nương vào lòng từ của Phật Làm sao có thể siêu thăng?

Chúng ta chìm trong kiếp sống điên đảo đảo điên như mộng huyễn này, ngày qua ngày không biết được sự tự tại của Đức Phật, không nghĩ đến việc thoát sinh tử, cứ theo thiện ác mà thăng trầm, tùy nghiệp lực mà thọ báo.

Người đời đa số làm thiện ít, tạo ác nhiều, nên ít kẻ giàu sang mà lắm người bần cùng. Chìm trong sáu nẻo luân hồi thọ muôn vạn khổ sở. Có kẻ sáng sinh chiều chết hoặc chỉ sống được vài năm. Có người sống hết tuổi già mới chết… Nhưng tất cả đều không làm chủ được mình. Vì vậy mới có chủ trương nương vào bi nguyện của Phật để có thể tu hành. Bởi chư Phật và Bồ tát có uy lực, có hạnh nguyện từ bi hỷ xả, thừa khả năng cứu giúp chúng ta ra khỏi biển khổ, đến được bờ quang minh.

Từ bi nghĩa là thấy tất cả chúng sinh quá thống khổ, nên dùng lòng lân mẫn thương xót cứu độ, khiến họ lìa khổ được vui.

Hỷ xả, nghĩa là thấy tất cả chúng sinh khởi tâm niệm tốt gieo trồng phúc điền thảy đều tùy hỷ tán thán. Đối với các chúng sinh đang cần sự giúp đỡ, đều tùy theo nhu cầu mà bố thí cho họ. Lúc Thế Tôn còn đang tu, Ngài đã hành Bồ tát hạnh, bố thí hết đầu, não, xương, tủy… Cho nên Ngài từng nói: “Trong cõi Tam thiên Đại thiên, chưa có một mảnh đất nhỏ nào mà ta không từng bỏ thân chôn xương“.

Hôm nay, chư vị cần phải nỗ lực bám vào câu thoại đầu mà khán, chẳng nên để thời giờ trôi suông.

LỜI KHAI THỊ GIẢI THẤT

23 tháng Giêng, Quí Tỵ (8/3/1953)

Xin mừng quí vị đã hành xong hai kỳ thiền thất. Đã đến lúc giải thất, tôi xin chúc mừng quí vị. Nếu mượn lời người xưa mà nói thì không có kết thất hay giải thất gì cả, chỉ có một câu thoại đầu quý vị cần tham cho đến lúc khai ngộ mà thôi. Hiện giờ dù quý vị đã ngộ hay chưa, chúng tôi cứ chiếu theo quy củ mà hành sự. Trong thời gian đả thất, quí vị không phân biệt ngày đêm, cốt để khai ngộ, cũng vì muốn đào tạo nhân tài trong cửa Phật, nếu chỉ sống đắp đổi cho qua ngày thì thật là uổng phí thời gian vậy.

Hôm nay trên Thường trụ, có Đại Hòa thượng cùng Chư sư Thủ lĩnh, noi theo quy tắc của cổ nhân đồng đến khảo sát công phu của các vị. Mong các vị đừng nói bậy, chỉ cần thành thật đem công phu của mình trình ra, mỗi người đáp một câu, nếu tương ưng thì Thường trụ sẽ chứng minh cho quý vị. Người xưa nói: “Tu hành ba đại kiếp, ngộ trong khoảng sát na”. Công phu được đắc lực thì chỉ trong khoảng gảy móng tay là ngộ rồi.

Xưa, Thiền sư Giác ở Lang Nha có một bà đệ tử đến thân cận tham thiền. Sư dạy bà tham câu “Tùy tha khứ” (Mặc kệ nó). Bà thực hành không hề lui sụt. Một hôm nhà bà phát cháy, bà nói “Mặc kệ nó” (Muôn duyên đều buông bỏ, bà cứ theo lời dạy mà tu), lại một bữa khác, trong nhà đang chiên bánh, ông chồng nhóm lửa. Bà múc bột bỏ vào chảo dầu, nghe vang lên một tiếng “xèo”, bà bỗng ngộ đạo, liền nhắc chảo dầu trút xuống đất, vỗ tay cười vang. Ông chồng cho là bà nổi cơn khùng, liền mắng: “Bà làm như vậy chẳng phải điên là gì?”. Bà nói: “Mặc kệ nó“. Rồi đi đến chùa Thiền sư Giác cầu ấn chứng. Sư Giác chứng nhận bà đã thành Thánh quả.

Hôm nay vị nào đã ngộ rồi, xin đứng dậy bước ra nói thử một câu xem? (Đợi một lúc không có ai đáp, Hòa thượng Hư Vân liền bước ra khỏi Thiền Đường), Pháp sư Ứng Từ… tiếp tục cuộc khảo vấn. Sau giờ chỉ tịnh, Hòa thượng Hư vân mới bước vào Thiền Đường ban lời khích lệ, xong Ngài khai thị tiếp rằng:

“Cõi hồng trần quá rộn ràng náo nhiệt, phải có công phu và chịu khó lắm mới đến đây ngồi tĩnh tọa tham thoại đầu. Người Thượng Hải các ông nhờ căn lành thâm sâu Phật pháp hưng thịnh, hội đủ phúc duyên đặc biệt lắm nên mới có được cái đại sự nhân duyên tốt như thế này.

Phật giáo Trung Quốc từ xưa đến nay tuy có các Tông, Giáo, Luật, Tịnh, Mật… nhưng nếu kiểm thảo một cách nghiêm túc thì chỉ có Thiền Tông là vượt trên tất cả (mấy hôm đầu, tôi đã nói qua cả rồi). Chỉ vì gần đây, Phật pháp suy vi, nhân tài chưa xuất hiện. Tôi trước kia đã từng đi khắp nơi trú ngụ, xem tình hình hiện nay càng không bằng ngày trước. Nói đến đây, bản thân tôi rất hổ thẹn vì không biết chi hết mà lại dựa vào lòng từ bi của Thường trụ, quý vị quan khách đã đẩy tôi ra đứng trước. Địa vị này lẽ ra phải mời Pháp Sư Ứng Từ mới đúng, vì Ngài là bậc Thiện tri thức, Tông, Giáo đều thông, là vị Trưởng lão đáng cho người nương tựa, chẳng cần mời tôi đến cho có bạn.

Tôi bây giờ già yếu, việc gì làm cũng chẳng được, chỉ mong quý vị khéo tiến tu, không nên thối đọa. Tổ sư Quy Sơn có dạy: “Điều đáng buồn là chúng ta cùng sanh cuối thời Tượng pháp, cách Phật đã xa, Phật pháp thưa thớt, người nhiều lười biếng nên đành đem cái thấy thiển cận mà nói ra để khyến khích người sau”. Ngài Quy Sơn hiệu là Linh Hựu, người Phước Kiến, thân cận với Tổ sư Bách Trượng mà phát minh được tâm địa. Tư Mã Đầu đà ở Hồ Nam quan sát thấy non Quy có địa thế rất tốt, hội đủ điều kiện cho một ngàn năm trăm Tăng chúng ở tu. Bấy giờ ngài Quy Sơn đang làm chức Điển tòa trong pháp hội Bách Trượng. Tư Mã Đầu đà đến gặp Ngài, phát hiện ra đây chính là ông chủ của non Quy, bèn thỉnh Ngài đến đó khai sơn. Ngài Quy Sơn là người thuộc triều nhà Đường. Phật pháp đến thời Đường nhằm cuối thời Tượng pháp, cho nên Ngài mới buồn tủi than sinh chẳng gặp thời, phật pháp khó hiểu, tín tâm của chúng sanh dần dần thối thất, chẳng chịu gắng công tu học cho nên Phật quả không có ngày thành. Chúng ta hôm nay cách ngài Quy Sơn đã hơn một ngàn năm, chẳng những thời Tượng pháp đã qua, mà thời Mạt pháp đã trôi hơn chín trăm năm rồi. Căn lành của người đời nay càng thêm ít ỏi, cho nên người tin Phật pháp rất nhiều, mà người ngộ đạo rất ít. Tôi lấy bản thân mình mà so sánh thì phương tiện để học hỏi Phật pháp thời nay có nhiều hơn.

Khoảng năm Hàm Phong, Đồng Trị thứ 9 (1851-1874) chùa miếu các nơi đa số đều bị hư nát. Trong vùng Tam Giang, chùa Thiên Đồng chỉ còn có một mái nhà. Đến khoảng năm Thái Bình nhờ một vị Lão túc ở núi Chung Nam đến trùng hưng. Lúc ấy chỉ có một bầu, một nón, đâu có gì để nói nhiều. Về sau, Phật pháp dần dần hưng thịnh, các nơi mới có người đứng ra gánh vác thẳng đến ngày nay. Lại có người quảy túi đa, đối với Phật pháp chân chánh hành trì, không thuyết giảng một lời. Thuở xưa, các Thiền sư đi du phương tham học, chỉ đi đường bộ. Ngày nay, đã có xe lửa, xe hơi, tàu thủy, phi cơ. Xem ra thì tưởng chừng như có phước, chẳng ngờ là càng thêm khổ, trăm đường phóng dật, chỉ trói buộc thêm.

Tuy nhiên, Phật học viện ở khắp nơi cũng tùy thời mà hướng dẫn, các Pháp sư được đào tạo mỗi ngày một nhiều, nhưng mà vấn đề căn bản thì chẳng ai để ý đến. Từ sáng đến tối chuyên cầu tri giải, chẳng cầu tu chứng. Đồng thời cũng chẳng biết chỉ một pháp tu chứng là giải quyết được vấn đề căn bản.

Ngài Vĩnh Gia trong Chứng Đạo Ca có nói: “Chỉ được gốc, cần chi ngọn, như ngọc lưu ly ngậm ánh trăng. Ôi! Lúc mạt pháp gặp thời ác, chúng sanh phước mỏng khó điều phục. Cách Phật càng xa, tà kiến sâu. Ma mạnh pháp yếu nhiều oán hại. Nghe nói pháp đốn giáo Như Lai. Hận chưa nghiền nát như ngói bể, Làm tại tâm, ẩn tại thân. Đừng có kêu oan chớ trách người. Nếu muốn tránh nghiệp đọa vô gián. Chớ chê chánh pháp luân Như Lai. Ta trước bao năm theo học vấn. Từng viết sớ sao tìm kinh luận. Phân biệt danh tướng mãi không thôi, Vào biển đếm cát chỉ chuốc nhọc. Lại bị Như Lai thường quở trách. Đếm trân bảo người có ích gì?…

Ngài Huyền Giác đã đại triệt đại ngộ với Lục Tổ. Lục Tổ gọi Ngài là “Nhất Túc Giác”. Thế nên cổ nhân nói: “Tầm Kinh thảo luận cũng giống như người vào biển đếm cát”. Pháp của Thiền tông giống thanh bảo kiếm Kim Cang Vương, gặp vật liền chém, chạm đến mũi nhọn liền chết, là pháp môn vô thượng, lập tức thành Phật.

Cũng như Thiền sư Thần Tán, đi hành cước lúc còn nhỏ tuổi, nhờ thân cận với Tổ sư Bách Trượng (724-814) mà được khai ngộ. Về sau, Ngài quay về nối nghiệp thầy bổn sư. Bổn sư hỏi:

-Ông rời ta đi các nơi có thu được sự nghiệp gì không?

Ngài đáp:

-Vẫn không được gì.

Bổn sư bèn sai Ngài hầu hạ như trước. Một hôm, Bổn sư đang tắm, sai Ngài kỳ lưng. Thần Tán vỗ vào lưng Thầy nói:

-Phật đường đẹp quá mà… Phật chẳng thiêng.

Bổn sư không hiểu ý, quay đầu lại nhìn.

Ngài nói tiếp:

-Phật tuy chẳng thiêng mà hay phóng quang!

Hôm khác, Bổn sư ngồi bên cửa sổ xem Kinh, có một con ong chui đầu vào tờ giấy dán ở cửa sổ để tìm lối thoát ra ngoài. Thần Tán thấy vậy nói:

-Thế giới rộng thênh thang chẳng chịu ra, cứ vùi đầu vào giấy cũ, biết bao năm mới thủng?

Rồi đọc bài kệ:

Không môn bất khẳng xuất Đầu song dã thái si Bách niên tán cố chỉ Hà nhật xuất đầu thời.

Cửa không chẳng chịu chui ra Lủi vào song cửa… thật là quá ngu! Trăm năm dùi giấy mịt mù Cứ làm kiểu ấy bao giờ thoát qua?

Bổn sư nghe nói, cho là mắng mình, bèn đặt Kinh xuống hỏi:

-Ông rời ta đi hành cước một thời gian, gặp ai, học những gì mà khi về ăn nói lạ lùng như vậy?

Thần Tán thưa:

-Con từ khi lìa Thầy đến hội của Ngài Bách Trượng nhờ Ngài chỉ dạy được chỗ thôi dứt. Vì nhớ Thầy tuổi đã già nên quay về để báo thâm ân.

Bổn sư bèn bảo đại chúng đến giờ cơm thỉnh Thần Tán thuyết pháp. Thần Tán liền lên tòa, đề cao phong môn của tổ Bách Trượng, nói:

Linh Quang độc diệu Quýnh thoát căn trần Thể lộ chân thường Bất câu văn tự Tâm tánh vô nhiễm Vốn tự viên thành Đãn ly vọng duyên Tức như như Phật.

Linh Quang riêng chiếu Vượt khỏi căn trần Hiển hiện chơn thường Chẳng nệ văn tự Tâm tánh không nhiễm Vốn tự viên thành Chỉ lìa vọng duyên Tức như như Phật.

Bổn sư liền cảm ngộ, nói:

-Chưa bao giờ lão tăng được nghe việc rốt ráo như thế này.

Rồi đem việc chùa giao lại cho Thần Tán, lại đảnh lề Thần Tán và tôn làm Thầy.

Quí vị hãy xem việc ấy thật là dễ dàng, đâu cần gột rửa gì? Quí vị và tôi ngày hôm nay đả thất được hơn mười ngày, vì sao lại không ngộ đạo? Chỉ vì chúng ta không chịu dụng công đến chỗ chết tiệt cái tâm lăng xăng, hoặc chỉ xem như trò đùa trẻ con, hoặc cho rằng dụng công tham thiền thì phải ngồi yên trong Thiền Đường mới được. Kỳ thật điều đó chẳng đúng. Người chân thật dụng công thì chẳng còn phân chia động, tịnh… đầu đường xó chợ, bất cứ chỗ nào cũng dụng công được.

Thuở xưa, có Hòa thượng Đồ Tử đi du phương. Một hôm trên đường vào chợ đi ngang qua cửa hàng thịt, thấy khách hàng đến mua tấp nập, ai cũng đòi chủ tiệm cắt thịt nạc cho mình. Người bán thịt nổi giận buông dao xuống hỏi: –“Có miếng nào không phải là thịt nạc đâu nà?” Hòa thượng Đồ Tử nghe nói, bỗng nhiên khai ngộ.

Đủ thấy sự dụng công của người xưa, chẳng phải chỉ hạn cuộc ở trong Thiền Đường. Hôm nay, các ông chẳng ai kể lại nhân duyên ngộ đạo của mình, thật là uổng phí thời giờ. Xin kính thỉnh Pháp sư Ứng Từ cùng các Đại hòa thượng khảo sát lại xem!

PHÁP NGỮ GIẢI THẤT

Ngài Hư Vân ra khỏi Thiền Đường, Pháp sư Ứng Từ khảo vấn từng người một. Sau khi khai thị xong, mỗi người đến chỗ đã định sẵn ngồi xuống. Ngài Hư Vân lại bước vào Thiền Đường, ban lời nhắc nhở. Sau khi đã nói lời khai thị và mở đầu buổi uống trà xong, mọi người đứng dậy. Ngài Hư Vân mặc áo màu xanh, ngồi xếp bằng như Đức Phật, lấy cây gậy trúc vẽ một vòng nói:

Tài kết thất, hựu giải thất Giải kết mang mang liễu hà nhật Nhất niệm vong duyên chư cảnh tức Ma ha bát nhã ba la mật. Tâm cảnh tịch, thể dụng quy Bổn tự viên minh vô trú dạ Na phân Nam Bắc dữ Đông Tây Vạn tượng tùy duyên Quán Tự Tại. Điểu đề hoa tiếu nguyệt lâm khê Tức kim giải thất, nhất cú tác ma sinh đạo Chung bảng hống thời bát bồn khiêu Đế quán Bát Nhã ba la mật… Giải!

Vừa kết thất đã giải thất Giải – kết rộn ràng ngày nào hết Một niệm quên duyên, muôn cảnh dứt Ma ha bát nhã ba la mật Tâm cảnh lặng, thể dụng về Vốn tròn sáng, không đêm ngày Đâu phân Nam Bắc hay Đông Tây Muôn sự tùy duyên: Quán Tự Tại! Chim hót hoa cười trăng rọi khe. Bữa nay giải thất, một câu nói làm sao? Chuông trống khưa thời, bát chậu nhảy Hãy quán Bát Nhã ba la mật -Giải thất!-

Sau khi giải thất tại chùa Ngọc Phật, các cơ quan cùng đoàn thể Phật giáo ở chợ Hàng Châu phái cư sĩ Đỗ Vĩ đến Thượng Hải thỉnh Sư sang Hàng Châu.

Ngày 19 tháng 2 Â.L (2/4/1953), Sư đi Hàng Châu, đến chùa Tịnh Từ chủ trì Pháp hội, qui y cho mấy ngàn người. Mọi người mời Sư trụ trì chùa Linh Ẩn, nhưng Sư cáo bệnh từ chối. Sau đó, Hòa thượng Diệu Chân núi Linh Nham, Pháp sư Vô Ngại… mời Sư sang Tô Châu lập Pháp hội, Sư bèn sang Tô Châu.

Xong Pháp hội, Sư đi dạo cảnh- Hổ Khưu, lễ tháp tổ Thiệu Long. Thấy tháp viện đã bị cường hào chiếm đoạt, tháp đá và bia không còn, chỉ còn đống gạch vụn. Vào năm Quang Tự (1875- 1908), Sư đã từng đến đây lễ viếng tháp Tổ, tất cả hình ảnh ngày xưa hãy còn trong ký ức. Sư bèn moi trong ngói đá, tìm ra cái nền cũ, thương lượng với các thân sĩ ở địa phương cùng các Phật tử hộ pháp ở Thượng Hải lo việc trùng tu lại, Sư mời Hòa thượng Diệu Chân cùng Hòa thượng Sở Quang ở Hổ Khưu lo việc trùng tu. Được một tháng thì hoàn thành.

Thành lập Hiệp Hội Phật Giáo Trung Quốc

Khi Hòa thượng Hư Vân ở Tô Châu, có đến thăm chùa Thọ Thánh ở Bán Đường, lễ Tháp viện của ngài Thiện Kế đời Nguyên, xem bộ Kinh Hoa Nghiêm được chép bằng máu, đọc lời chế tán của ông Tống Liêm và cả những dấu tích xưa khắc trong bia đá. Nhận lời mời của các cư sĩ ở Nam Thông… Sư đến Ngân Sơn làm chủ Pháp hội, người từ các nơi đến qui y khoảng mấy ngàn. Công việc xong, cuối tháng 3 âm lịch Sư trở về Thượng Hải.

Tháng tư, Sư nhận được điện tín ở Bắc Kinh giục Sư đến đó. Tại đây, Sư vẫn trụ chùa Quảng Tế. Chư vị đại biểu Tăng già từ các nơi cũng kéo về, chính thức thành lập Hiệp Hội Phật Giáo Trung Quốc. Sau khi Đại hội bàn thảo và biểu quyết các điều quan trọng xong, Sư đến tỉnh Sơn Tây Đại Đồng, tham lễ tượng Đại Phật bằng đá ở Vân Cương. Rồi Sư xin nghỉ, rời Bắc Kinh. Các nhà lãnh đạo đương thời khuyên Sư đến Lô Sơn dưỡng bệnh. (Trong Đại Hội có đề nghị nên bỏ phần giới luật nhưng Sư từ chối).

Bài Giảng:

TƯỚNG SUY TĂNG ĐỒ THỜI MẠT PHÁP

Thứ ba 23/1/1955 Â.L Ất Mùi

Đời có câu: Tú tài là tội đồ của Khổng tử, Hoà thượng là tội đồ của Phật… Mới nghe qua có thể cho đây là lời nói quá. Nhưng bây giờ nhìn hiện tượng mạt pháp, mới hiểu làm lục quốc mất, chính là lục quốc, không phải tại Tần. Hại Tần cũng do Tần, chứ không phải do thiên hạ. Còn làm Phật pháp diệt là đệ tử Phật chứ không phải do đạo nào khác. Nay nhân đáp lời người hỏi, tiện thể giải bày những khúc mắc luôn.

Hỏi: – “Hiện nay muốn thay đổi năm tháng Phật lịch, chẳng dùng ngày mùng 8 tháng 4 là Lễ Tắm Phật được chăng?”

Đáp: Pháp vận Phật Thích Ca được chia làm ba thời kỳ: chánh, tượng, mạt. Chánh pháp, tượng pháp mỗi thời đều kéo dài một ngàn năm. Riêng mạt pháp là một vạn năm. Thời kỳ chánh, tượng đã qua rồi, còn mạt pháp đến nay đã qua 982 năm rồi. Nhưng mạt cũng có thể không? Làm sao có thể không? Nếu được nhiều người ủng hộ thì Phật pháp trường tồn vạn cổ, về sự tướng tuy có phân: chánh, tượng, mạt, nhưng nếu người sống chân chánh ngay trong thời mạt, thì mạt cũng thành chánh. Còn nếu tự sinh lui sụt, dù sống trong thời chánh pháp cũng có thể biến chánh thành mạt. Trong kinh tả thời mạt pháp có đủ tướng suy: hiện nay đều đã xuất hiện. Hiện tượng Tăng, Ni lập gia đình (tăng thú ni giá), ca sa đổi thành bạch y, bạch y lên Thượng tòa. Tỳ kheo xuống Hạ tòa – đây là những tướng suy mạt pháp đã hiện. Pháp Phật Thích Ca tính đến lúc con người thọ 30 tuổi thì pháp Đại thừa diệt. Lúc người ta thọ 20 tuổi thì pháp Tiểu thừa diệt. Lúc người thọ 10 tuổi thì chỉ còn sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”.

Vào thời điểm mạt pháp, những pháp Phật thuyết đều sẽ bị diệt hết. Đầu tiên là Kinh Lăng Nghiêm, thứ đến là Kinh Bát Nhã Tam Muội. Chẳng hạn như theo kiến giải cư sĩ Âu Duơng Cánh Vô, ông cho Kinh Lăng Nghiêm là “Bách nguỵ thuyết”, (trăm điều hư ngụy) và phản đối Kinh Lăng Nghiêm. Còn vị pháp sư nọ ở Hương Cảng nói: Kinh Hoa Nghiêm, Viển Giác, Pháp Hoa và Khởi Tín Luận… thảy đều là giả, Đây chính là hiện tượng mạt pháp.

Thuở quá khứ sau khi Phật Ca Diếp nhập diệt, chư thiên đem Tam tạng Thánh giáo củaa Ngài kết tập cất giấu rồi tạo tháp cúng dường. Thời Đường, chư thiên mách cho Luật sư Tuyên biết ở Nam Cao Tứ Đài, Chung Nam, chính là chỗ chứa kho tàng Thánh tích. (Kinh Tạng Tượng Phật Ca Diếp thời mạt pháp được cất ở đó, hiện nay có 13 vị Bồ tát Viên Giác đang gìn giữ tại hang này. Đến nay mỗi khi đến tháng chạp, trên không vang rền tiếng trống trời).

Năm trước Hiệp Hội Trung Quốc Phật Giáo mở Đại hội, mọi người bàn: “Phật pháp diệt là do đệ tử Phật làm diệt”.

Thật ra chính phủ chẳng để ý anh diệt hay không diệt. Lúc mở hội, chính phủ phái người đến dự. Trong hội nhiều giáo đồ thảo luận xôn xao, bởi vì những giáo đồ này đã đề xướng rằng: Các giáo lý trong Kinh Phạm Võng, Tứ Phần Luật, Bá Trượng Thanh Quy… làm hại chết nhiều thanh niên nam nữ nên cần phải thủ tiêu. Còn nói Đại lãnh y là y phục Hán tục, không phải Tăng phục nên ngày nay Tăng nhân cần phải sửa đổi, không được mặc, nếu còn mặc chính là bảo thủ chế độ phong kiến. Họ còn tuyên bố tự do tín ngưỡng, tin đạo tự do, nên chuyện tăng lập gia đình… hay ăn thịt uống rượu… đều phải để tự do, không ai được quản. Tôi nghe nói, không thể làm thinh, bắt buộc phải phản đối. Họ cũng bất đồng với ngày Lễ Tắm Phật. Không chịu công nhận mùng 8 tháng 4 là Lễ Tắm Phật. Tôi cứ y theo pháp bổn nội truyền: Từ thuở Pháp sư Ma Đằng viết sớ trình vua Minh: “Phật thuộc tuổi Giáp Dần, sinh ngày mùng 8 tháng 4 năm Chu Chiêu Vương 24.

Trong Ngụy thư, Sa môn Đàm Mô Tối cũng viết: “Phật sinh ngày mồng tám tháng tư năm Chu Chiêu Vương 24 và Nhập Niết Bàn ngày 15 tháng 2 năm Mục Vương 52. Năm, tháng, đã được ghi rõ ràng như thế, bao triều đại đều tôn thờ không đổi. Năm Giáp Dần thời Chu Chiêu Vương tính đến nay đã 2982 năm, hiện tại bọn họ muốn đổi thành là 2502 năm. Xưa nay Khổng Tử, Lão Tử sinh sau Phật, giờ họ lại đem Khổng, Lão sắp cho sinh trước Phật. Tôi lúc đó trong Đại hội, cùng tranh luận với họ về Giới luật, Niên hiệu, Hán phục.,, và không chấp nhận huỷ bỏ thay đổi gì…

Khi hai Tôn giả Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đem Phật pháp từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc. lúc đó cách Phật nhập diệt còn chưa xa. Đương thời tại chùa Bạch Mã. Ban đêm nhìn về phía Đông thấy có ánh hào quang lạ lùng, Ma Đằng chỉ ra chỗ A Dục Vương chôn dấu xá lợi Phật. Minh đế lập tháp để cho Phật giáo, Lão giáo tranh tài ưu liệt, Ma Đằng bay lên không hiện đủ thần thông biến hoá. Pháp Lan xuất Đại pháp âm, tuyên dương pháp Phật. Trí huệ thần thông cao tột của hai Tôn giả này chẳng lẽ không thể nói rõ năm, tháng sinh của Phật hay sao? Sau này chư vị Cao tăng như Ma Thập, Pháp Hiển, Huyền Trang, Đạo Tuyên, tuy có nhiều thuyết, song cũng không khẳng định là phải thay đổi chỉnh sửa gì. Cho đến năm Dân Quốc thứ 2, cư sĩ Chương Thái Đàm cùng các cư sĩ… triệu tập khai mở Đại Hội Vô Giá tại chùa Pháp Nguyên Bắc Kinh, thảo luận ngày Lễ Vía Phật và nghị quyết mồng 8 tháng 4 là Lễ Tắm Phật. Hiện nay phần đông thế giới đều áp dụng theo lịch này và chính phủ cũng không hề bảo Phật giáo phải thay đổi. Tôi chủ trương phải dùng Phật lịch của mình. Đúng hay không đúng, phải y theo nếp xưa mà công bố.

Sửa đổi rất không tốt, thế mà bọn họ lại ương ngạnh muốn thay đổi những ngày Lễ vía của Phật. Tất cả đều không thể được! Họ không đồng ý dùng mồng 8 tháng 4 làm Lễ Tắm Phật mà đòi đổi thành 15 tháng 4. Luật Phạm Võng thuộc thời Hoa Nghiêm, Tứ Phần Luật thuộc thời A Hàm họ đều đòi huỷ. Bá Trượng Thanh Quy từ thời Đường tới nay được thiên hạ tôn kính phụng hành, họ lại muốn sửa đổi. Đại lãnh y được đắp từ thời Hán đến nay họ cũng muốn đổi nốt. Hãy xem, như thế thì có phải là mạt pháp hay không chứ? Do vậy tôi mới cùng họ tranh luận.

Tôi nói: – Muốn thay đổi chăng là các vị phải tự thay đổi kia. Phật là người Ấn Độ, nước Ấn một năm phân làm ba quý, một quý có 4 tháng. Còn nước Trung Hoa một năm phân làm bốn quý, một quý có ba tháng. Nước ta có phân niên hiệu, hàng can hàng chi Giáp, Tý… còn Ấn Độ thì không. Cho nên chuyện “Cải triều hoán đại“, không những làm sai lệch loạn bậy, mà càng khiến việc thêm rối rắm mù mờ. Ngài Huyền Trang ở tại Ấn độ 18 năm cũng chưa từng khẳng định phải chỉnh lại niên đại. Tiền nhân đã thực hành những ngày lễ này cả một, hai ngàn năm rồi. Một khi đổi sửa, rất là không hay. Chúng ta sao cứ tự làm khổ mình, muốn đổi lung tung như vậy?

Tôi cùng Lý Nhậm Triều bàn bạc, tuyên bố những thay đổi trong Phật môn này chính là do hạng Hoại giáo đồ yêu sách, gây rối – Chính phủ nếu chẳng làm chủ thì những giáo đồ này sẽ mặc tình làm loạn làm càn, như thế sẽ khiến Phật giáo đồ Quốc tế phát sinh hoài nghi.

Chính phủ mời tôi lên kinh, dự Đại Hội Chiêu Đãi Phật Giáo Quốc Tế. Tôi đâu thể để cho nhóm Hoại giáo đồ làm loạn, sửa quy luật Phật chế được?

Các ông Lý Nhậm Triều v.v.. khuyên tôi hãy nhẫn nhục. Chính phủ thấy việc ầm ỹ đến không thể không can dự vào, liền hỏi nguyên cớ sửa đổi. thế là có người lên tiếng:

-Tăng Ni muốn mặc y hoại sắc.

Chính phủ hỏi: -Hoại sắc là sao?

Pháp sư Năng đáp:- Cà sa là hoại sắc, ngoài ra thì không phải.

Mọi người nghe xong đồng thanh nói: – Vậy thì chỉ lưu Cà sa và thủ tiêu mọi thứ khác!

Tôi buộc phải lên tiếng: “Pháp sư Năng nói không sai! Phạn ngữ gọi Ca sa, Tàu gọi Hoại sắc. Ca sa có ba loại: Ngủ Thất Y Đại Y. Còn có thêm một áo trong và quần. Ấn Độ dùng ba y, còn quần? Theo phong thổ nước ta thì chính là Khố y.

Những Y này là vật tuỳ thân, ngủ cũng dùng, chết cũng không rời.

Tại Ấn Độ khí hậu nóng, còn Trung quốc khí hậu lạnh, cho nên bên trong mặc tục phục không cho có màu mè và đem tục y nhuộm thành hoại sắc, hễ làm Phật sự thì đắp Ca sa ở ngoài. Ca sa thì không mặc thường, xem như rất tôn kính. Từ triều đại Tống, Kim, Nguyên… biến Hán y thành Tăng y đến nay chưa hề sửa. Hán y đổi thành Tăng y được gọi là Đại lãnh y, chính là Y hoại sắc (cà sa) nếu muốn phân định giới hạn giữa đạo và đời thì không nên sửa đổi, còn nếu sửa đổi Đại lãnh y tức là khiến tăng, tục thành bất phân, giới tuyến hai bên nhìn không ra.

Chính phủ nghe tôi nói vậy, tán thành đồng ý. Còn bảo “Phật luật Tổ quy” chẳng nên sửa đổi, hơn nữa còn phải giữ gìn và bảo tồn. Và thông báo tạm kết thúc họp.

Chư vị xem đây có phải là Tăng nhân tự hủy Phật pháp chăng? Hư Vân tôi già yếu, khó thể hộ đạo lâu. Rất hi vọng Tăng già có đầy đủ Chánh tri kiến để cùng nhau góp sức cứu vãn Phật giáo giữa cơn sóng cuồng. Được vậy Phật pháp mới không hoại diệt.

Về Lô Sơn

Tháng 5, Sư cùng thị giả Giác Dân đi về phương Nam, qua Vũ Hán. Sư lưu lại đây một thời gian ngắn, Thầy Nguyên Thành là Trụ trì chùa Bảo Thông, mời Sư ở lại, thỉnh Sư chủ trì hai kỳ Thiền thất. Xong việc, Sư đến Lô Sơn (cư sĩ Trần Chân Như đã hẹn đón Sư tại Khuông Lô). Tại Lô Sơn, Sư ở chùa Đại Lâm.

13

TRÙNG HƯNG ĐẠO TRÀNG VÂN CƯ

Tháng 6, nhiều Thiền nhân từ núi Vân Cư đến, thưa với Sư:

-Khi quân Nhật xâm chiếm Trung Nguyên, vì núi Vân Cư hiểm trở, quân du kích đễ trốn nên giặc đã đốt toàn bộ chùa Chân Như. Ngày nay, chỉ thấy tượng Phật Tỳ Lô Giá Na bằng đồng cao lớn nằm giữa dám tro tàn cỏ hoang. Sư nghe xong, động mối thương tâm, nhớ lại chùa Vân Cư từ đời Đường, khai sơn năm Nguyên Hòa (806-821) là đạo tràng tối thù thắng, từng trải qua nhiều đời của chư vị tổ Sư. Kể từ lúc Sư tổ Đạo Dung khai sơn, kế đến Hoằng Giác, Đạo Ưng tiếp nối. Về sau lại được các vị như Thiền sư Tề, Thiền Sư Dung, Lão Phu Thuấn, Phật Ấn Liễu Nguyên, Viên Ngộ Khắc Cần, Đại Huệ Tông Cảo… chư vị ấy đều đã từng Trụ trì ở chùa này. Những vị đến đây hành hóa có Triệu Châu, Vân Môn Yển, Cổ Tháp Chủ, Đông Sơn Hiếu, Viên Thông Tứ, Chơn Tịnh Văn… Còn các cư sĩ như Bạch Cư Dị, Bì Nhật Hưu, Tô Đông Pha, Hoàng Sơn Cốc, Tần Thiếu Du, Lã Cư Nhân v.v… chẳng thể tính được số lượng. Đây là Đạo tràng của nhiều đời Tổ sư mà nay hoang tàn đổ nát như thế, nếu không trùng hưng e sẽ bị chôn vùi mai một, vì vậy mà Sư phát tâm trùng hưng lại.

Trước tiên, Sư xin chính quyền cho phép mình đến Vân Cư cất am tranh; các cư sĩ như Chúc Hoa Bình… tình nguyện theo Sư hộ tống. Ngày mồng 5 tháng 7 Â.L (13/8/1953), Sư đên Vân Cư.

Vân Cư ở về phía đông của Lô Sơn, chiếm một khoảng đất hơn ba trăm dặm, thuộc huyện Vĩnh Tu, núi cao ngất, chất chồng hiểm trở. Khi lên đến đỉnh núi lại thấy bằng phẳng, chung quanh có các ngọn núi đoanh vây tựa như bức thành thiên nhiên. Nơi đây có ruộng vườn, ao đầm. Trời lúc nào cũng phủ đầy mây trắng. Nơi đây từng có những ngôi Điện đường lầu các nhiều đời gầy dựng sơn son rực rỡ, ánh màu ngọc lam ngọc bích chói lọi… (ấy là vào thời kỳ cực thịnh Đường, Tống).

Tháng 9, có một số Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đệ tử của Sư từ Quảng Đông, nghe tin Sư đã đến Vân Cư, bèn tìm tới, họ vượt qua bao đường bộ, đường thủy, mất nửa tháng mới đến đây. Họ men theo con đường phía Tây đi lên: vách núi dựng đứng, có rậm phủ gối, có những chỗ quá hẹp không thể cỡi ngựa vượt qua, đường lại ngoằn ngoèo quanh co, đi khoảng hơn mười cây số mới đến Thạch Môn (cổng đá) tới đây thì đường đã mở rộng và vào được tới chùa, song khách chỉ có thể chứng kiến khung cảnh hoang tàn: giậu đổ, tường xiêu, gạch ngói vùi trong cỏ rậm.

Họ gặp một Thiền nhân liền hỏi thăm: “Hòa thượng ở dâu?”. Thiền nhân đưa tay chỉ vào một túp nhà nhìn giống như cái chuồng bò, cỏ mọc lấm tấm, vách kết bằng cỏ. Mới đầu khách khom lưng chui vào và không thấy gì. Định thần nhìn kỹ hồi lâu, mới phát hiện ra Sư ngồi trên sạp, dường như đang nhập định.

Lúc này Sư mở mắt nhìn và hỏi: “Các con đi có vất vả lắm không?“. Thế là khách bèn kể lể hết bao nỗi khốn khó gian nan của mình.

Sư bảo: “Lúc Thầy mới tới, nơi đây chỉ có bốn ông Tăng, định cất nhà tranh cùng ở. Ai dè Tăng chúng nghe tin đổ xô tìm tới, chưa đầy một tháng mà đã lên đến gần 50 người… Ngoài cái chuồng bò này thì chỉ còn cái nhà hư còn trơ cột. Chắc các con đã thấy rồi? Nếu đã đến đây thì hãy chịu khó ở lại vài ngày, xem có kham nổi không?“

Sau tháng 10, Tăng nhân các nơi tìm đến mỗi ngày một đông. Thực phẩm thiếu nên ngày ăn không đủ hai bữa. May nhờ cư sĩ Giản Ngọc Giai ở Thượng Hải cúng dường lương thực mới qua được buổi tàn đông. Bấy giờ Sư dự định sẽ phát hoang, vỡ ruộng để trồng trọt, cùng mọi người xây dựng, Điện tháp, Tự viện… ở đây.

Mùa đông năm này, chùa Nam Hoa ở Khúc Giang mời Sư đến truyền giới.

NĂM GIÁP NGỌ (1954) 115 TUỔI

Mùa xuân, Sư ở Vân Cư, lên kế hoạch xây cất Đại điện. Trước đây, tượng Phật Tỳ Lô Giá Na bằng đồng lớn, cao mấy trượng, được đúc vào năm Vạn Lịch triều Minh (1573-1616), Hoàng thái hậu Thánh Từ đúc và cho thếp vàng.

Cũng từ thuở ấy, chánh điện nơi đây phải lợp ngói bằng sắt vì núi cao, cuồng phong thổi mạnh, nếu lợp ngói gạch dễ bị thổi bay.

Tự lập lò đúc sắt, đồng

Bây giờ muốn xây cất lại, trước tiên phải đúc ngói sắt. Sư họp Tăng chúng, cho xây dựng lò đúc để tự đúc sắt. Còn phải đúc bốn cái nồi lớn, mỗi cái có thể nấu cho cả ngàn người ăn và hai quả Đại hồng chung. Lúc này, Tăng chúng tụ hội có hơn trăm người. Trong đây có đủ thành phần nên cũng biết đủ các ngành nghề. Chư đạo hữu Tăng tục trong nước, ngoài nước nghe tin, cũng xúm nhau hỗ trợ tài vật. Có người, có đất, có tiền, công việc tương đối dễ dàng rồi!

Sư bèn chia chúng Tăng làm hai Ban: sắp các vị làm thợ mộc, thợ hồ, nghĩa là những ai có khả năng xây dựng Điện đường thì cho vào một ban. Còn những ai biết khai khẩn trồng trọt, sành về nông nghiệp, thủ công như trồng trà, đan tre… thì vào chung một ban. Đại chúng nhiệt liệt hưởng ứng.

Tới cuối hạ, khoảng tháng 5, tháng 6 thì Tháp Đường xây xong, trên Tàng Kinh Lâu có chứa một Tạng Tách Sa Tần Già.

Riêng Ban Nông Nghiệp, cũng đã khai khẩn hoàn thành khoảng 60 khoảnh ruộng, tự trồng lúa để ăn, theo Thanh quy của Tổ Bách Trượng.

Mùa thu, tháng 7, xây các ngôi kiến trúc Liêu Phòng, Tăng Đường, lầu dưới, lầu trên… gồm 20 gian để làm chỗ ở cho chúng Tăng. Còn lập thêm lò nung (để hầm gạch, ngói).

Nhà Vệ Sinh, Phòng Giã Gạo… cũng lần lượt xây xong. Nhưng Sư vẫn ở nơi “chuồng bò”. Bổn Hoán (Phương trượng chùa Nam Hoa), Tỳ kheo ni Khoan Định (ở Thái Bình Liên Xã)… tất cả 6 người, cùng lên núi lễ Sư, thấy có một quả chuông hư nằm trong cỏ, thắc mắc hỏi thăm. Sư đáp:

-Đây là cổ vật của bổn sơn, gọi là chuông Tự Minh. Trong các triều đại đã qua, khi nào có Tổ sư đến thì chuông này tự kêu. Lúc quân Nhật đến đốt núi, lầu bị cháy, chuông rơi xuống bị rạn nứt, nay tính đem hàn lại. Khi nào hàn xong sẽ treo chuông lên.

Sư dẫn mọi người đi thăm núi, thấy rừng tre xum xuê, đất núi mọc nhiều cây huỳnh tinh, sắn dây, trà cùng cây đại sam… Còn cây ngân hạnh mọc rất nhiều. Sư chỉ một cây, nói:

-Đây là cây Vô tâm bạch quả.

Tách ra xem thì quả nhiên trái không có ruột. Nhóm sư Bổn Hoán ở lại mười ngày. Sư chẻ tre, làm một số thiền bản, mài nhẵn bóng, tự chọn rồi đề tên, tặng cho các đệ tử ở Quảng Đông, Hương Cảng.

Mùa đông, tháng 11, cái chuồng bò nơi Sư ở bị cháy, đại chúng mời Sư lên ở trên lầu mới. Sư bảo:

-Thầy chỉ thích ở chỗ nhà cũ u nhã.

Thế là Sư kết tranh, làm lại theo khuôn nhà cũ mà ở.

Năm này, Bắc Kinh thường đánh điện mời Sư tới đó. Nhưng Sư vì già bệnh, nên từ chối. Cuối năm, Sư mở một kỳ thiền thất.

Phụ ghi:

ĐÀO ĐƯỢC ĐỊA CUNG

Gần 12 giờ ngày 10 tháng 3 năm Giáp Ngọ (12/4/1954), để xây lại Đại Điện, trước tiên Sư cho xúc hết ngói gạch đi, rồi tập hợp hơn trăm người dốc sức di chuyển tượng Phật bằng đồng, thì phát hiện ra phía dưới Bảo tọa có một Địa Cung, thu nhặt được ba tấm bia bằng đá xanh, một hộp vuông bằng đá (phía trên có nắp đậy). Xem xét kỹ, thấy có một tấm bia đề năm Tân Dậu, đời Tống niên hiệu Thiệu Hưng (1131-1135), do Thiền sư Pháp Như khắc vào đá.

Tấm thứ hai ghi Đời Minh, năm Nhâm Thìn, niên hiệu Vạn Lịch (1573-1616), do Thiền Sư Hồng Đoạn khắc. Riêng chiếc hộp vuông, bên trong có chứa các pháp bảo trấn tòa.

VĂN BIA SỐ 1

(Bài minh ghi việc xây lại Cung Bảo Điện Đại Phật, Thiền viện Chân Như, núi Vân Cư).

Khoảng niên hiệu Kiến Viêm (1127-1131), giặc Hồ xâm nhập vào nước ta, địch qua sông tràn xuống, hung ác phóng hỏa, lửa cháy rực trời. May là chùa ở trong núi, thoát được họa này.

Đầu năm Thiệu Hưng (1131), giặc cướp nổi lên như ong, vùng Cửu Giang Hải Môn đều là sào huyệt của chúng. Lúc này toàn bộ ngôi chùa trên núi đã bị thiêu rụi không còn sót một thứ gì. Khi đó Trụ trì chùa là Thiền sư Ngộ sang Triết Hữu lánh nạn. Tin chấn động đến kinh đô, vua bèn phái người đi dẹp giặc. Thiền sư Ngộ ở lại Thiên Thai suốt ba năm không về, chức Trụ trì trong núi thay đổi đến bốn lần, do người đi, ở bất thường, chùa không ai xây cất lại. Hễ gặp gió mưa thì xem như không có chỗ trú, số chúng trụ ở đây khoảng chừng sáu-bảy, nhiều lắm là mười người.

Năm Thiệu Hưng thứ tư (1934), Pháp Như này vâng lệnh đến đây, may nhờ Tăng lữ bốn phương không bỏ tôi. Chúng thường trú có khoảng 300 người, đều nhiệt tình siêng năng làm việc. Nhờ các quan và đàn việt giúp đỡ nên mới đủ duyên xây cất lại. Nhưng phải mất sáu -bảy năm mới xây xong các ngôi Điện, Đường, Phương Trượng, Pháp Đường, Bếp Hương Tích, Vân Môn Đường…

Thêm vào đó, có 30 vị đàn việt phụ đóng góp, hỷ cúng hai chục ngàn đồng để xây Chánh Điện. Điện cao hơn sáu trượng, các bệ sâu rộng tương xứng, hùng vĩ tráng lệ hơn cả điện cũ. Khi sắp đúc Tôn Tượng, trước phải xây bệ ngồi, phía dưới tòa còn có một nơi giành để cất một pho tượng đồng, một chiếc răng Phật, một hộp báu đựng xá lợi làm bằng gỗ bạch đàn.

Tất cả đều được giấu trong Địa Cung của Phật tòa và có ghi rõ năm tháng… Tôi khắc bài minh vào đá và chôn giấu. Thầm mong trong tương lai, sẽ có người (giống như Ngài Phật Đồ Trừng) phát hiện ra (đá Lâm Chuy), nghĩa là khi hạ tượng này xuống sẽ bắt gặp… và hiểu rõ hết.

…Bia tôi nếu hiện Là gặp tri âm Giống như hôm nay.

Thời Trung Hưng, nhà Tống đời thứ 10, năm Tân Dậu (1141),Pháp Như ghi.

VĂN BIA (SỐ 2)

(Do người trùng hưng đợt kế tiếp ghi)

Mùa xuân năm Nhâm Thìn, niên hiệu Vạn Lịch thứ 20 (1592), tôi đến núi này, có vị Tăng tóc dài là Đời Minh Hiền thị tịch, để lại hai-ba đồ chúng sống giữa miền núi lạnh. Tôi nghĩ Vân Cư là ngôi chùa lớn nhất miền Giang Tả, vì sao mà bị hoang phế như thế này? Cảm thán một hồi, tôi phát nguyện bế quan ba năm, tụng Kinh Hoa Nghiêm.

Số Tăng chúng nơi đây chưa đến 50 vị, đồng phát tâm trùng hưng chùa, đi khuyến hoá các đàn việt như Tương Thự ở Đan Dương và các ông Hạ Học Lễ, Học Dịch, Học Nhân cùng phụ xây Đại điện. Chưa được bao lâu, tin bay tới triều đình. Hoàng thượng sai quan mang vàng bạc đến cúng để xây Tàng Kinh Các, Phương Trượng, Điện Thiên Vương, Lầu Chuông, Tam Môn, Già Lam, Đền Tổ Sư Chân Quân, Liêu, Đường, Nhà Dưỡng Lão, Nhà Dưỡng Bệnh, Nhà Thờ Vong, Nhà Ẩn Dật, Nhà Tri Ân… lần lượt hoàn thành. Cũng nhờ ân đức Hoàng thượng, nên mới đúc được tượng Phật Tỳ Lô đáng giá ngàn vàng, rất là kỳ vĩ.

Khoảng năm Bính Ngọ, lại quyên thêm tiền của các đàn việt như Dư Ngọc Lập, Mậu Hy Ông ở Kim Đàn, Hạ Học Nhân… ở Đan Dương, họ đồng hiến cúng vàng để đúc tượng Đức Thích Ca rất tráng lệ.

Pháp lữ bốn phương không bỏ tôi, tụ họp đến đây bốn-năm trăm vị, kinh tế nhờ vào thu hoạch các nông sản có được từ vườn trà, than núi… do đó cũng dành dụm, dự trữ được nhiều.

Khi sắp an vị Phật, trước phải xây tòa ngồi, lúc dời tòa có dành chỗ để cất bảo vật do Hoa Đình Thượng thư Lục Công, hiệu Bình Tuyền hiến cúng. Cụ già đã trăm tuổi này, muốn thường hộ trì núi, nên đã cúng một tượng Phật Di Lặc cổ, một bình đựng xá lợi bằng vàng, thêm một cái hộp đồng, có hạt châu trên đỉnh Phật, nghiên mực của ông Lương… tất cả đều được cất trong Địa Cung dưới Bảo tòa Phật ngồi.

Tôi khắc vào đá, ghi rõ năm, tháng để người đời sau biết được nguyên do, hiện thời là năm Bính Ngọ, niên hiệu Vạn Lịch, đời Minh. Và, cũng bắt chước theo Thiền sư Pháp Như, tôi hi vọng sẽ gặp người hữu duyên đến đây phát hiện ra… giống như truyện tích của Ngài Phật Đồ Trừng vậy.

Minh rằng:

Chùa xưa xây lại Muôn vàn đắng cay Hoạn nạn tưy nhiều Thoát nhờ Tam bảo Nguyện con kiên thường Lời minh khắc rõ Bao đời xưa nay Thủy chung kiên cố Các cảnh đan xen Không trước không sau Người đây thông suốt Thấu rõ pháp thân Trong kiếp vị lai Gặp được tri âm Lời này khắc tặng Nối trước truyền sau Nhân duyên chín muồi Ưu Đàm nở hoa. Chùa Vân Cư Trung Hưng đời thứ nhất, Tỳ-kheo Hồng Đoạn ghi,

VĂN BIA (SỐ 3)

(Ghi những bài thơ của Tỳ-kheo Hồng Đoạn)

Vân Cư sáng lập đã ngàn năm, Nền đổ lâu ngày cỏ phủ giăng. Phát tâm xây dựng đà không dễ Dọn ngói tro tàn cùng khó khăn Mong được người sau tư bổ hộ Danh thơm vạn thuở tiếp Thánh nhân Người mắt sáng hiểu nhân rõ quả… Sau ắt sinh về cõi Lạc Bang.

Hồng Đoạn

Từ tôi xây dựng đã mười năm Chết đi sống lại biết bao lần Lê chân ngàn dặm xin tiền của Đói khát đủ mùi cũng một thân Lắm điều kinh khủng, không nệ khổ Sóng còn thấm thìa chiếc thuyền nan Nếu người hậu lai hủy, sẽ đọa… Địa ngục, tam đồ đọa khổ vạn phần.

Tỳ-kheo Hồng Đoạn, trùng hưng Vân Cư Tự ghi.

Thêm hai bài thơ nữa:

Cảm Tác Khi Lên Núi

Lập chí Vân Cư, tuyền Phật trường Lên đây mưa gió quá thê lương Ban sơ khách đến chen không lọt Nay chẳng một người viếng thượng phương. Cỏ hoang quấn quít văn bia đổ Đường vắng chân người, rêu phủ xanh Trăng soi dòng biếc, ai người tỏ Cây lá thì thào đón tịch dương.

Ngỏ Lòng

Chặt gai phát cỏ dựng nhà Thiền Trước sau tính lại quá mười niên Xương đau, chống gậy lê muôn dặm Mềm lòng nhà cất biết bao phen Vạch mây trèo đá xuyên qua đỉnh Chận sóng khơi dòng phá vách ngăn Ba lần liều mạng nhưng chưa chết Ân cần gởi lại bậc cao hiền.

Hồng Đoạn

Hai bài thơ này đào được ở dưới tòa ngồi của Phật, nơi Đại điện cũ. Và 13 trấn vật trong địa cung, trong đây có một cái bình bằng vàng nhỏ (bên trong chứa hai hạt xá-Lợi, hai hạt trân châu (đá ngũ hoa), một cây kim bằng vàng nhỏ có gắn hạt châu ở đầu kim) v.v…

(Thềm một bài nữa của vị trụ trì tiếp theo):

Bài yết thị ghi trên bảng gỗ

Mùa đông năm Tân Mão, tôi ngụ ở chùa Quy Tông, núi Khuông Sơn, vâng lời của chư vị lão túc ở bản sơn, cùng lời mời của Phật tử Tu Giang Hùng, làm chủ Pháp tịch. Bấy giờ, số Tăng chúng không dưới một ngàn người, khổ nỗi nhà phòng chật hẹp không chứa hết, lại thêm mưa gió phá hoại; Điện Phật, nhà bếp, nhà ăn đều phải làm lại.

Khi di chuyển tòa ngồi của Phật, phát hiện được trong lòng đất có một bức tượng vàng, xá lợi, lư bình, nghiên của ông Lương… cùng các bài kệ, bài minh của chư vị Lão túc, bèn đặt lại chỗ cũ. Tôi cũng nhân đây mà ghi ít dòng, đề rõ năm tháng. Bởi vì nhà bếp, nhà kho mới khởi công vào năm Bính Thân, từ xuân sang đông; đến năm Đinh Dậu Điện Phật mới hoàn thành. Nhà kho, nhà bếp hoàn tất vào mùa xuân năm Kỷ Hợi.

(Trụ trì Vân Cư, nối pháp dòng Lâm Tế, đời thứ 33, Đông Ngô Sa môn Hối Sơn Giới Hiền ghi).

Lúc Hòa thượng Hư Vân xây dựng Tàng Kinh Lâu (lầu chứa Kinh), đã đem các hòn đá cùng những di vật khác đặt dưới bảo tọa Phật, thêm vào một tượng Phật Di Lặc bằng đồng cùng một hạt ngọc để bảo tồn và tỏ lòng tôn kính các bài minh.

NĂM ẤT MÙI 1955 – 116 TUỔI

Mùa xuân, việc kiến tạo các ngôi Điện vũ ngày một khởi sắc, Bếp Hương Tích, Ngủ Quán Đường, Phòng Kho, Phòng Khách, Thiền Đường… lần lượt được xây xong.

Mùa hạ, Hiệp Hội Phật Giáo Bắc Kinh mở Đại hội nghị, Sư vẫn chưa rảnh để đi trước.

Mùa thu, Tăng sĩ các nơi tìm đến thêm mấy chục người trong số đó có nhiều người chưa thọ giới cụ túc, ngỏ ý cầu Sư truyền giới. Sư nhận thấy lúc bấy giờ nếu truyền giới thì chưa đủ phương tiện, nhưng vì muốn hoàn thành cho người mới phát tâm, giúp họ thêm chánh kiến, nhưng không thể không cân nhắc, bèn quyết định – chỉ truyền giới cho những vị chưa thọ Tỳ kheo hiện đang ở trong chùa – do thời cuộc khó khăn nên không truyền cho những người từ nơi khác đến.

Bước đầu tiên, bắt buộc phải trình Nhà cầm quyền và xin phép Hiệp Hội Phật Giáo chấp nhận, Sư dự định sẽ truyền giới vào tháng 10. Ngày rằm làm lễ tiến đường. Nhưng vừa mới định ngày xong thì Tăng sĩ khắp nơi, từ các Danh sơn, Tịnh thất, Tự viện, Am đường… đều kéo lên núi, nài nỉ xin thọ giới rất đông. Mới đầu khoảng hơn trăm, nhưng sau đó họ liên tục kéo đến, tăng riết tới ba trăm, tính luôn các vị Tăng trong chùa thì tổng cộng có hơn năm trăm vị, khiến việc ăn ở trở nên thiêu hụt, mà việc sắp xếp chấp tác cũng thành khó khăn.

Trong khoảng thời gian này, Thiên Chúa Giáo ở Thượng Hải cũng thường xảy ra chuyện và Hội Thanh Niên Phật Giáo cũng sinh biến. Đạo Tràng Kim Cang cũng xảy ra cố sự. Trầm trọng hơn nữa là chính phủ tỉnh Cam Túc đã đánh điện báo cho chính quyền tỉnh Giang Tây (chỗ ngài Hư Vân), hay là có những nhà lãnh đạo ngoại giáo lén khoác áo Tăng sĩ, đã đến Vân Cư cầu giới…

Và họ đã liệt kê danh sách, gởi thông báo đến… Sư nghe tin này, bắt buộc phải đề phòng cẩn thận, các Cơ Quan Trị An ở địa phương cũng hiệp lực bàn tính, để bình ổn tình hình.

Nhưng bây giờ, Giới tử đã kéo lên núi rất đông, nếu không cho thọ thì trái với lời Phật dạy, mà cho thọ thì thật bất an. Nhân đó, Sư căn cứ theo lời dạy trong Kinh Phạm Võng: áp dụng ((Phương tiện tự thệ thọ giới“. Sư vì Giới tử bỏ ra một tuần, khô môi mỏi lưỡi giảng giải về giới cùng các pháp khác… cho họ nghe.

Giải thích về đàn giới

Tháng 10 năm Ất Mùi, 1955 tại chùa Chân Như, Vân Cư.

Lần này bản sơn đã làm kinh động Tăng tục khắp núi cùng quí vị ở tỉnh thành các nơi. Quí vị đã chẳng nề gian khổ, lặn lội đường xa đến đây cầu giới. Vì muốn tiến đạo mà tới đây. Chỉ hiềm ở chốn am tranh này, mọi việc đều không thích ứng, chẳng thể lo liệu chu đáo, không khỏi làm chư vị động niệm. Điều quan trọng trong lần truyền giới này là có nhiều vị chưa hiểu những điều ẩn khuất, nên tôi sẽ giải thích cho quí vị rõ, để quí vị thông cảm khỏi hiểu lầm.

Nơi đây là đạo tràng Tổ đình, một ngôi tự viện nổi tiếng tự ngàn xưa, có nhiều điển tích lâu đời của chư Đại tổ sư. Các Ngài từng hoằng pháp nơi đây đến mấy mươi vị, từ đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh… đến nay, đã trải qua bao lần hưng phế, Trong thời kháng chiến chống Nhật, nơi này còn bị nạn binh lửa thiêu rụi, các ngôi Điện đường phòng ốc bị hư hại hết, tính ra trăm phần không còn được một. Hư Vân này năm trước đi Bắc Kinh dự Hội Hòa Bình và lập Hiệp Hội Phật Giáo xong thì về phương Nam, mới đến Khuông Phụ dưỡng bệnh, thì nghe kể Tổ đình Vân Cư này đang bị bỏ hoang, từ lâu hư phế, chẳng nỡ để một danh lam thắng cảnh phải bị mai một như thế, mới phát tâm trùng hưng. Bấy giờ tôi xin phép chính phủ lên núi phát hoang, tận mắt chứng kiến trên nền chùa cũ tiêu sơ chỉ có gai cỏ mọc um tùm và còn sót lại hai pho tượng Phật bằng đồng với bức tượng Bồ tát Quán Thế Âm nằm im lìm trong cỏ rậm. Tôi xúc động, cảm thương đến chảy nước mắt, liền dọn sạch cái chuồng bò hư, sửa sơ lại để ở, lòng chỉ mong bảo tồn chốn danh lam cổ tích này thôi. Còn chưa biết hoạch định ra sao thì nửa năm đã trôi qua. Tăng sĩ các nơi hay tin tìm đến, ở mãi chăng chịu đi, vấn đề trở thành nan giải… vì nếu không chứa họ thì không được, mà tiếp nạp thì việc ăn ở không đủ phương tiện. Thế là tất cả cùng nhau khai khẩn đất hoang, chẳng từ gian nan.

Muốn giải quyết nhu cầu ăn mặc thì phải đồng cam cộng khổ, dốc sức làm việc. Lúc đó trong số Tăng chúng, có nhiều vị chưa thọ giới Cụ túc, nhiều phen thỉnh cầu tôi truyền giới, họ nài nỉ mãi, tôi bất đắc dĩ phải bảo họ: “Muốn. truyền giới phải được chánh phủ cho phép mới dám tiến hành”.

Sau đó xin chính phủ xong, tôi báo cho đại chúng hay là: “Hiện nay, chánh phủ chỉ cho phép mở một giới kỳ ngắn dành riêng cho những vị giới tử tại bổn sơn, không được tổ chức ồn ào, nhất là không được báo tin cho các nơi khác biết rằng ở đây có mở Giới đàn.

Thật ra với tình thế eo hẹp hiện thời, mà giới tử khắp nơi kéo đến, chắc chắn nơi ăn chốn nghĩ không cung ứng đủ, dẫn đến việc tiếp đãi thành không chu đáo. Tôi nguyên là muốn dưỡng bệnh nên mới lên chỗ hoang sơ này cất am tranh ở tạm, chứ đâu có ý đến đây để mở Đàn giới!“

Nào ngờ tin tức đàn giới bị đồn ra ngoài. Cộng thêm mớ khách vãng lai tung tin rộng ra, khiến chuyện được đồn lan khắp nơi. Thế là bốn phương gởi thư đến hỏi tới tấp (có đến mấy trăm phong). Tôi đâu thể nói dối, chỉ có thể trả lời là do không đủ nơi ăn chốn ở, nên không thể thông tin cho bên ngoài biết, chỉ vì các giới tử tại đây cầu giới nên mới tạm khai một giới kỳ ngắn hạn.

Vì sao những người ngoài bản sơn đến, không được tham dự đàn giởi?

Hôm nay, chư vị đã từ nơi xa xôi đến đây, nếu không giải thích rõ các tình tiết u uẩn bên trong thì quí vị sẽ hiểu lầm. Từ xưa đến giờ, quốc gia đã thực hành chính sách Tự do tín ngưỡng. Đối với những việc truyền giới, đả thất, giảng Kinh, thuyết pháp của chúng ta… chánh phủ đều cho phép.

Lần truyền giới này tôi cũng đã xin phép chính phủ cùng Ban Tôn Giáo Sự Vụ, Hiệp Hội Phật Giáo cả rồi… và đã được phê chuẩn thì tại sao chư vị ở nơi khác đến lại không được tham dự? Chuyện ăn ở khó khăn thì không đáng nói, nhưng vừa rồi xảy ra biến sự Thiên Chúa giáo ở Thượng Hải, nhưng đây là chuyện ngoại giáo, chẳng bàn đến làm gì. Tiếp đến Hội Phật Giáo Thanh Niên ở Thượng Hải tự cho mình quyền đứng ra lo việc hoằng pháp lợi sinh, nên đã gây ra nhiều sự cố. Chuyện này thuộc về giới cư sĩ, cũng không cần bàn đến, nay tôi chỉ đề cập đến giới xuất gia – Tại Đạo Tràng Kim Cang cũng tiếp tục xảy ra chuyện. Đối với các sự kiện đó, chư vị nhìn thấy có quan tâm hay là không quan tâm?

Vừa rồi tỉnh Cam Túc đánh điện đến báo tin cho chính phủ tỉnh Giang Tây hay là nơi đây hiện có một người ngoại đạo, giả dạng Tăng sĩ đã trà trộn lên núi Vân Cư rồi, chuyện này trong đục khó phân, chỉ biết là vì một người mà nhiều người chịu khổ lây. Chuyện này rất hệ trọng, đâu thể chẳng đề phòng.

Mở phương tiện tự thệ thọ giới

Chư vị lần này vì không biết rõ hoàn cảnh truyền giới khó khăn của bản tự, nên cứ vô tư tìm đến. Lại thêm các sự kiện không hay vừa xảy ra ở Thượng Hải – nên tốt nhất, tôi đành phải mời quí vị trở về – Vừa nghe tôi nói thế chắc chắn quí vị trong lòng thế nào cũng buồn phiền, thật ra tôi đã suy nghĩ rất nhiều, rất kỹ – Tôi đâu có muốn làm quí vị lặn lội đường xa uổng công.

Hồi đầu năm, tôi dự định mở Đàn giới dài 53 ngày, nhưng giờ gặp tình trạng như thế này, thì bắt buộc phải rút ngắn thời hạn. Trước đây tôi định rằm tháng mười sẽ làm lễ Tiến đường, đến mười tám tháng mười một là hoàn mãn, tổng cộng 32 ngày. Vậy mà bây giờ phải giảm bớt 15 ngày, nghĩa là thứ tư mồng một tháng mười một Ất Mùi (14/12/1955 D.L) sẽ làm lễ Tiến đường, đến thứ bảy, mười tám tháng mười một Â.L (Tức 31/12/1955 D.L) thì hoàn mãn.

Do vậy mà hôm nay, tôi đặc biệt vì các giới tử từ xa đến, mở ra phương tiện “Tự thệ thọ giới“. Kính mong quí vị từ nơi khác đến hãy hoan hỷ chiếu theo lời tôi dặn mà làm.

Hư Vân tôi bình sinh rất không ưa chuyện lập giới đàn bừa bãi, không chấp nhận hành động lạm truyền giới pháp. Mỗi khi thấy các nơi truyền giới giống hệt kiểu buôn bán, chẳng cần hỏi Hòa thượng A-xà-lê là đàn tràng tổ chức có đúng luật hay không, cảnh truyền giới gấp rút, có khi một ngày mà xong ba đàn, thêm tệ trạng giới tử ở xa không đến dự mà chỉ ký giới (gởi thọ giới), rồi cũng lãnh Điệp đàn. Còn xảy ra thói tệ: khắp nơi buôn bán Điệp đàn, chẳng cần biết Luật nghi ra sao. Đối với những việc mua bán Như Lai như thế, tôi cảm thấy rất buồn, rất đau lòng nhức óc, vậy thì vì sao hôm nay tôi lại cho “Tự thệ thọ giới”…?

-Xét việc thọ giới, vốn được phân làm hai: Thọ giới Phật và Thọ giới Tăng.

Thọ giới Phật là năm chúng Xuất gia quỳ trước Phật và Bồ Tát, Pháp Sư – cầu thỉnh ba lần – xin thọ 10 giới trọng và 48 giới khinh của giới Bồ Tát. Còn Hai chúng Tại gia thì thọ 6 giới trọng và 28 giới khinh của giới Bồ Tát. (Vì chư vị Bồ Tát đã vong ngã nên phải ở trước Phật và Bồ tát lãnh tho.. Riêng người cầu giới Bồ Tát cũng phải tự xét mình đã vong ngã hay chưa).

Còn Thọ giới Tăng là: Tỳ kheo thì phải ở trong Tăng chúng lễ thỉnh Thập Sư, làm phép Yết ma xin thọ 250 giới, Tỳ kheo ni thọ 348 giới. (Bởi vì hàng Thinh văn chưa vong ngã nên cần phải có 10 Thầy chứng minh).

Bồ Tát Giới Bổn nói: “Nếu trong khoảng nghìn dặm, không có Thầy trao giới thì được phép ở trước hình tượng Phật và Bồ Tát tự thệ thọ giới, nhưng cần phải thấy hảo tướng!?,

Lại trong Kinh Hoa Nghiêm có bài kệ:

Nhất thiết nghiệp chướng hải Giai tùng vọng tưởng sinh Dục cầu sám hối giả Đoan tọa niệm thật tướng Tội nghiệp như sương lộ Huệ nhật năng tiêu trừ Nhược lục căn thanh tịnh Tắc giới tướng thành tựu.

Tất cả biển nghiệp chướng Đều do vọng tưởng sinh Nếu người muốn sám hối . Ngồi yên niệm thật tướng Tội nghiệp như sương sớm Huệ nhật làm tiêu tan Nếu sáu căn thanh tịnh Thì giới tướng thành tựu.

Cho nên giới Bồ tát nếu trong ngàn dặm mà không có giới sư truyền trao thì có thể phương tiện tự thệ. Nếu trong vòng ngàn dặm mà có Thầy trao giới thì không được phép khai phương tiện này. Nay các vị đã không quản xa xôi ngàn dặm tìm đến, đã có lòng tha thiết trân trọng, thì Hư Vân này hẹp hòi chi mà không truyền giới? Thật sự chỉ vì chướng duyên ngăn trở nên bất đắc đĩ phải khai mở phương tiện “Tự thệ thọ giới” đấy thôi.

Riêng về Tăng giới thì xưa nay cần phải mắt thấy đàn tràng, tai nghe pháp Yết ma mới được thọ giới, chẳng thể tự thệ. Nhưng quí vị lần này, thảy đều phát tâm trân trọng đến bản sơn cầu giới – Giới đàn cũng đã thấy, Thập sư cũng đã biết và tôi hằng ngày đều thuyết giảng về phép tắc thọ giới – Quý vị cũng đã nghe xong hết. Tuy quý vị chưa chính thức đăng đàn, nhưng bây giờ đã có thể trở về trú xứ của mình đăng đàn, nghĩa là – Quý vị chiếu theo ngày giờ truyền giới nơi đây mà lên điện tự phát thệ, tôi ở tại đây sẽ tác pháp, từ xa hồi hướng, chiếu cố cho quý vị. Tuy chưa được nhất nhất như pháp, nhưng cũng không đến nỗi sơ thất.

Vả lại, trong Kinh Tăng Nhất A Hàm có nói: “Pháp thông thường của chư Phật, nếu gọi “Thiện Lai Tỳ Kheo” liền thành Sa Môn Hư Vân này không hề dám sánh mình với Phật, chỉ vì hiện nay gặp phải hoàn cảnh chướng ngại nên vạn bất đắc dĩ phải quyền biến, tạm lập phương tiện. Chư Phật ở trong cõi Thường Tịch Quang, ắt cũng thầm cho phép. Chư vị nên biết rằng nếu không gặp hoàn cảnh nhân duyên đặc biệt như thế này, thì ngàn vạn lần tôi quyết chẳng dám khai phương tiện Tự thệ thọ giới!

Hư Vân này nghiệp chướng sâu nặng. Quý vị đến cầu tôi thuyết giới, tôi không thể không nói. Chỉ vì tôi và quý vị đời trước từng gieo nhân sai lầm nên ngày nay mới gặp phải quả không toại ý. Xin quí vị mỗi người hãy trở về chùa mình, dù là trong Am hay Tịnh thất, hãy chí thành lễ Phật, tha thiết sám hối, theo đúng ngày ấn định nơi đây mà tiến hành:

– Mồng 1 tháng 11 Ất Mùi khai đàn (tức Thứ tư 14/12/1955 D.L)

– Mồng 8 tháng 11 Â.L truyền giới Sa Di

– Ngày 14 tháng 11 truyền giới Tỳ kheo

– Ngày 16 tháng 11 đốt hương cúng dường

– Ngày 17 tháng 11 thọ giới Bồ Tát

– Ngày 18 tháng 11 Ất Mùi (tức Thứ Bảy 31/12/1955 D.L) giới đàn viên mãn.

Quý vị cứ như thế mà lễ sám cho chí thành khẩn thiết, nếu thấy được hảo tướng thì là đắc giới… Hãy cầu thỉnh các bậc Thượng nhơn, Sư trưởng chứng minh cho. Tôi cũng đối với quý vị hệt như các giới tử trong bổn đàn này, sẽ duyệt xét cấp Giới điệp cho.

Về phần Tỳ-ni, oai nghi, phép tắc qui củ, quý vị nhớ phải tự học tập. Nay, tôi vì các vị khai phương tiện này, thật là vạn bất đắc dĩ. Người xưa nói: “Thà đem thân này đọa địa ngục chứ không uốn Phật pháp theo nhân tình”. Hư Vân hôm nay làm việc này, dù có đọa địa ngục cũng là việc nhỏ, còn các vị nếu không chịu lưu tâm, không chịu hành trì đúng theo giới luật sẽ thành là kẻ trộm hình thức, mượn áo Phật, dối xưng Thích Tử mà thôi. Chỉ vì một miếng Giới điệp mà khoác danh rỗng, ắt sẽ chiêu quả báo khốn khổ cùng cực không thể tả hết trong tương lai. Vì vậy xin quý vị phải hết sức cẩn trọng.

Y bát: Y bát là chánh duyên thọ giới, giờ tôi xin giải thích sơ cho quí vị nghe. Y của bảy chúng hình thức chẳng đồng. Tổng quát thì có mạn y và ba y khác nhau.

Mạn Y: Tiếng Phạn gọi là Bát Xá, nước ta gọi là Mạn. Mạn nghĩa là không có bờ, không có bờ nghĩa là cái y không có điều, cũng gọi là Y lễ sám, y này nguyên là của Sa-di và Sa-di-ni. Các vị Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di đã thọ Tam quy Ngũ giới cùng hai chúng đã thọ giới Bồ Tát tại gia cũng đắp được, nhưng chỉ cho phép đắp trong lúc làm Phật sự và lễ sám. Ngoài những trường hợp đó ra, đều không được đắp. Nếu đến thăm chùa am phải gói vào bọc đem theo. Nếu ở trong nhà nên đặt nơi sạch sẽ.

Ba y: Là Y Ngũ, Y Thất và Đại Y.

Luật chế Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phải sắm đủ ba y, nhuộm màu hoại sắc, y cắt ra nhiều mảnh, có may các điều dài ngắn như thành của bờ đê, đây là tượng trưng cho bờ của thửa ruộng, có khả năng chứa nước để nuôi dưỡng lúa mạ, Mảnh ruộng trong Y tiêu biểu cho Pháp, thấm nhuần nước Tứ Lợi, Tăng trưởng mạ Tam thiện, dùng để nuôi dưỡng pháp thân và huệ mạng, cho nên Tăng được gọi là Phước điền Tăng, Y gọi là Phước điền y.

Y Ngũ: Tiếng Phạn gọi là An Đà Hội, nước ta gọi là Y làm công tác (Tác vụ y), cũng gọi là Hạ Y hay là Thập Tác Y. Bề dọc y chia ra 5 điều, bề ngang gồm các miếng dài, ngắn kết thành. Là một trong ba y của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni. Thường mặc để chấp tác lao động hoặc có việc ra vào bên ngoài thì khoác y này.

Y Thất: Tiếng Phạn gọi là Uất Đa La Tăng, nước ta gọi là Nhập Chúng Y, cũng gọi là Thượng Y. Bề dọc có 7 điều, bề ngang thì có hai bức dài, một bức ngắn, cắt rời ra may thành. Đây là thường phục Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni. Khi lễ Phật, sám hối, tụng kinh, tọa thiền, phó trai, nghe thuyết giảng, an cư, tự tứ… cho đến những chuyện nhóm chúng biện sự đều khoác y này.

Đại Y: Tiếng Phạn gọi là Tăng-già-lê, nước ta gọi là Tạp Toái Y, nghĩa là cắt ra nhiều miếng nhỏ rồi may lại thành. Vì y có nhiều điều nên được xem là y lớn nhất trong ba y của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo- ni. Nên được gọi là Đại Y. Khi thăng tòa thuyết pháp, làm lễ tụng giới, đều khoác y này. Y này có nhiều loại không đồng. Chia làm Thượng, Trung, Hạ… mỗi thứ có ba bậc.

Ba bậc hạ là:

– Hạ hạ: y có 9 điều.

– Hạ trung: 11 điều

– Hạ thượng: 13 điều.

Cả ba Hạ Y này đều có hai bức dài một bức ngắn cắt rời ra rồi may lại thành.

Ba bậc Trung gồm:

– Trung hạ: có 15 điều.

– Trung trung: 17 điều.

– Trung thượng: 19 điều.

Ba loại Trung Y trên đều có ba bức dài một bức ngắn, cắt rời ra rồi may lại thành.

Ba bậc Thượng gồm có:

– Thượng hạ: 21 điều.

– Thượng trung: 23 điều.

– Thượng thượng: 25 điều.

Ba Thượng Y trên đều có bốn bức dài và một bức ngắn, cắt rời ra rồi may lại thành.

Tất cả y này đều dùng vải gai cắt ra may thành, chẳng được dùng các loại lụa là, tơ gấm (loại tơ dày và láng) hay sa (lụa mỏng), hoặc tơ tằm mà may. Cũng chẳng nên thêu hình tượng Phật vào Y. Có người còn thêu cả ngàn hình Phật lên Thượng Y và gọi đó là Y Thiền Phật (Y ngàn phật). Thật là không nên! Xưa nay đệ tử Phật đối với hình tượng của Ngài, chỉ có hết lòng tôn kính, lý đâu lại làm chuyện đảo điên, đem tượng Phật khoác vào thân mình, thậm chí còn đặt ngang bắp vế nữa. Quả thật không nên thêu hình Phật vào như thế.

Lại nữa, khí hậu ở Ấn Độ rất nóng, chư Tỳ Kheo chỉ dùng ba Y cùng với cái quần chứ không có mặc thêm y áo gì khác. Do vậy y và quần thường chẳng rời thân. Khi ngủ thì lấy Hạ y làm mền đắp, lúc chết cũng không rời.

Còn Trung Quốc ta thuộc vùng khí hậu lạnh, các Tỳ-kheo phải mặc thêm áo lạnh để tròn bên trong, chỉ khi nào làm Phật sự hay lễ sám… mới khoác Cà sa. Do vậy mà cà sa không được dùng thường. Dù vậy, khi ra ngoài cũng phải mang theo bên mình. Lìa y là phạm giới.

Về hình thức thì Y của Sa-di và Sa-di-ni, trong Luận Tỳ Bà Sa có nói: Sa-di được sắm hai y: Thượng và Hạ. Một là An-đà-hội, hai là Uất-đa-la-tăng, để thanh tịnh nhập chúng và khoác trong những lúc đi lại.

Sa-di

Thọ y Mạn điều. Nếu đủ 20 tuổi, sắp Sửa thọ giới Tỳ kheo mới cho phép sắm ba Y, bình bát, tọa cụ.

Theo luật dạy thì Sa di có ba loại:

  1. Từ 7 đến 13 tuổi, gọi là Khu Ô Sa-di. Lúc đầu trẻ con xin xuất gia, Ngài A Nan không dám độ. Phật dạy, nếu có thể đuổi quạ được thì cho phép, nên mới gọi là Sa di đuổi quạ (khu ô).
  2. Từ 14 đến 19 tuổi, gọi là Ứng Pháp Sa di nghĩa là xứng hợp với địa vị Sa-di. Hạng này trải qua 5 năm học Phật, điêu luyện thuần thục rồi thì mới tiến đến thọ giới Cụ túc.
  3. Tuổi từ 20 đến 70 gọi là Danh Tự Sa-di, nghĩa là đã vào hàng Tăng mà chưa đủ duyên.

Hạng Sa di khu ô và Ứng Pháp nên đắp Mạn y không điều, vì họ chưa thuộc vào hàng Tăng. Hàng Danh Tự Sa di vì tuổi đã hơn 20 sẽ còn đăng đàn thọ giới Cụ túc, nên chẳng hạn cuộc vào việc hành pháp của Sa di, chỉ là theo thứ lớp thăng tiến, không vượt đẳng cấp mà thôi. Cho nên mới tạm cho đắp Y có tướng ruộng, chỉ không cho đắp Tăng Già Lê.

Bàn rộng thêm thì trong Giới Bổn Tỳ Kheo có nói: “Đủ 20 Tuổi có thể cho thọ cụ túc. Nếu không đủ tuổi, Phật cho tính từ ngày xuất gia đến năm hiện tại, mỗi năm tính là một tháng, dùng số tháng này mà tính thêm vào, thì 18 tuổi cũng có thể thọ giới cụ túc”. Lại, điều quan trọng là nhân cách của giới tử chứ không nên quá câu chấp. Vì vậy mà chư vị Đại tổ sư xưa nay thọ giới đều không bị hạn cuộc vào số tuổi.

Tọa cụ: Tiếng Phạn gọi là Ni-sư-đàn, là Tùy tọa y (y đem theo để lót ngồi), cũng gọi là Phu tòa y (y trải ngồi) còn gọi là Sấn túc y, tức là cái nền của cái tháp. Thân của người thọ giới như tòa tháp của 5 phần pháp thân. Vì 5 phần pháp thân đều nhờ giới mà sinh. (Tọa cụ này, bảy chúng đều có thể dùng).

Bát: Tiếng Phạn gọi là Bát-đa-la, Trung Hoa gọi là ứng lượng khí, vì thể, sắc, lượng đều đúng pháp.

Thể làm bằng sắt hay sành; chẳng được dùng đồng, gỗ tạo thành.

Sắc thì dùng hạt gai và hạt hạnh nhân nghiền nát ra, thoa trong ngoài, dùng khói tre xông cho đến lúc ngả màu lông chim cưu, chim cáp hay khổng tước. Nhuộm ngã màu như vậy để bình bát ở ngoài trời không hư mốc và không dính bẩn.

Về lượng thì bát thượng chứa một đấu rưỡi, bát trung chứa một đấu, bát hạ chứa năm thăng. Đó là tính theo đấu của nhà Chu. Nếu tính theo đấu của nhà Đường thì bát thượng chứa một đấu, bát trung chứa 7 thăng, bát hạ năm thăng. Tiêu chuẩn của bát này được hai chúng xuất gia thọ trì.

Ba y, bình bát, tọa cụ, là chánh duyên thọ giới của hai chúng xuất gia, là những nhu cầu cần thiết của thân, phải tự lo liệu chuẩn bị sẵn. Nếu không có thì không đúng pháp, chiếu theo luật thì không được đắc giới.

Giới luật là căn bản của phật pháp

Trước đây tôi đã giảng sơ về danh tướng của Y, Bát, giờ sẽ nói về yếu nghĩa của việc thọ giới. Quý vị hãy lưu tâm lắng nghe:

Điểm then chốt của Phật pháp là “Tam vô lậu học” (Giới, Định, Huệ). Trong đây Giới là căn bản. Bởi Giới sanh định, Định phát Huệ. Nếu có thể trì Giới thanh tịnh thì Định, Huệ tự viên thành. Giới Phật chế ra nói tóm tắt có ba loại:

  1. Giới Tại Gia: gồm năm giới và tám giới.
  2. Giới Xuất Gia: gồm mười giới Sa-di, Sa-di -ni. Giới cụ túc của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni.
  3. Đạo Tục Thông Hành Giới: (Giới dành Xuất gia và Tại gia): tức Tam tụ tịnh giới của Bồ- tát.

Nay chư vị cầu giới, việc đầu tiên là phải tôn trọng hành nguyện.

Hành là hành trì, hành y theo giới.

Nguyện tức là phát nguyện, phát bốn Hoằng thệ nguyện. Hành và nguyện hỗ tương nhau mới thành diệu dụng. Phật chế giới luật là muốn cho chúng sanh đoạn trừ tập khí xấu, dứt ác tạo thiện, bỏ trần hiệp giác. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm nói:

Giới là căn bản Vô thượng Bồ đề, nên phải trì giới cho đầy đủ.

Nhờ giới mà Phật pháp được trụ thế, Tăng già cũng nhân đây mà vững mạnh.

Giới gồm có: Giới pháp, Giới hạnh, Giới thể, Giới tướng.

Giới pháp: Là các giới Phật chế ra cho chúng đệ tử tuân giữ.

Giới thể: Khi đang thọ giới, lãnh giới pháp vào tâm, nơi thân liền sinh ra một loại giới thể. Giới thể này tuy hàng phàm phu không thể thấy nghe, nhưng vẫn thường hiện hữu liên tục trong đời sống, có công năng phòng lỗi ngăn ác, nên gọi là giới thể. Sự Ưu khuyết của giới thể tùy thuộc vào lúc thọ giới phát tâm cao thấp. Thế nên người cầu giới trước hết phải phát tâm cho tốt. Tâm chia làm ba bậc: Thượng, Trung, Hạ.

  1. Tâm bậc hạ: Trong lúc thọ giới, tâm trí hạ liệt, thệ nguyện chẳng rộng, hoặc giới tử tâm tán loạn, phan duyên theo cảnh, không miên mật, nên chỉ giữ được giới tướng, chứ không đủ công năng phát giới thể. Do tâm thấp kém nên chỉ được giới bậc hạ.
  2. Tâm bậc trung: Trong lúc thọ giới, tâm duyên theo các cảnh, đối cảnh chỉ đoạn được một phần ác, tu được một phần thiện, chỉ phát nguyện muốn bản thân mình thoát sinh tử, hoàn toàn không phát đại nguyện độ sinh. Do tâm này nên đắc giới bậc trung.
  3. Tâm bậc thượng: Trong lúc thọ giới, tâm cảnh minh tịnh, thường phát đại nguyện: Thệ đoạn tất cả ác, thệ tu tất cả thiện, thệ độ tất cả chúng sinh. Do phát tâm cao thượng nên đắc giới bậc thượng.

Lại nữa, trước khi thọ giới, nên quan sát tâm phan duyên của mình. Sau đó nên lập chí cao xa, mắt thấy tướng lòng vẫn sáng. Nếu không nghiên cứu thấu đáo, còn mù mờ về pháp tướng thì sao đắc giới bậc thượng? Nếu giới không phát, thì thọ giới uổng công, phí nhọc cả đời, quý vị cần phải lưu ý.

Cảnh để tâm phan duyên tuy có nhiều, song không ngoài hai loại: tình và phi tình. Cảnh tình là tất cả những loài động vật có sinh mạng như: người, cá, trùng, chim, thú… Cảnh phi tình là tất cả vật, thực vật không có sinh mạng như núi, sông, đất đai, mặt trời, mặt trăng, sao, cỏ cây, phòng, nhà, y thuốc, dụng cụ…

Chúng sinh tạo ác đều do mê đắm cảnh trước mắt. Như thấy tài vật thì khởi tâm trộm, thấy sắc đẹp thì khởi niệm dâm… Nếu ác nghiệp đã do cảnh khởi thì thiện nghiệp cũng từ cảnh sinh. Cảnh là gốc chế giới, là nhân phát giới. Nếu có thể phát lòng rộng lớn, phát tâm đại từ cứu hộ, đối với cảnh, phát ba thệ nguyện, cùng giới tương ưng. Khi tâm lãnh giới, hết sức hộ trì, tức là Thượng phẩm giới thể.

Giới hạnh:

Đã được giới thể rồi, trong cuộc sống hằng ngày, động tĩnh hành sự, tùy duyên dừng ác, tùy duyên tu thiện, thuận theo giới căn bản đã thọ, không vượt khuôn phép Tỳ-ni thì tất cả hạnh thế gian và xuất thế gian đều là giới hạnh.

Giới tướng: Là các giới Phật chế ra, gồm Trì, Phạm và khai, giá.

  1. Trì: thuận theo giới thể mà gọi, chia ra chỉ trì và tác trì.

Chỉ trì: là giữ chánh niệm để trì những giới đã thọ, ngăn thân tâm, không tạo các điều ác, nên gọi là chỉ. Chỉ là dừng mà không trái, giới thể vẫn sạch trong, thuận theo giới đã thọ nên gọi là Trì.

Tác trì: Tác là làm, trì là giữ, Thúc liễm ba nghiệp Thân, Khẩu, Ý; tu giới hạnh, hằng giữ gìn, khởi tâm lành nên gọi là tác, Hành đúng pháp, thuận theo giới đã thọ nên gọi là trì. Tạo thiện nghiệp, những gì nên làm thì làm, gọi là Tác trì.

Chỉ phạm: Chạy theo tâm si mê, lười biếng kiêu mạn, làm trái với những gì đã thọ. Đối với các nghiệp tốt, lại chán ngán không muốn tu học, nên gọi là chỉ (dừng). Song chỉ này trái ngược với những điều tốt, nền gọi là Phạm. Nghiệp tốt đáng làm mà ngưng chẳng chịu làm, gọi là chỉ phạm.

Tác phạm: Nội tâm chứa đầy các thứ độc hại như: tham, sân, si, mạn, ngã kiến… khuyến khích thân, miệng, làm trái đạo lý là tác. Tác này gây làm ô nhiễm những điều đã thọ nên gọi là phạm. các ác nghiệp phi pháp không nên làm mà cứ làm, nên gọi là tác phạm.

Về các phần khác quí vị nên nghiên cứu học tập trong Luật tạng, giờ không thể nào giảng hết các chi tiết được.

Những điều đã nói trên đây, tuy phân ra làm bốn loại, nhưng thật ra chỉ là một. Khuôn mẫu để thực hành chuyển phàm thành Thánh gọi là giới. Bởi vì ác nghiệp nếu không có cảnh thì chẳng khởi, chẳng khởi tâm thì chẳng tạo nghiệp, về thiện, cũng tương tự vậy. Luật sư Nam Sơn nói:

Trước khi chưa thọ giới Ác nghiệp trùm khắp cõi Nay muốn tiến, thọ giới Chuyển hết cảnh ác trước mắt Hoàn toàn khỏi tâm lành Nên giới phát trùm khắp các cõi

Cho nên người đắc giới là đã chuyển cái duyên ác từ vô thủy thành duyên thiện, biến khổ báo hữu lậu thành pháp thân. Chư vị đã phát tâm thọ giới thì đối với việc này cần phải khéo dụng tâm.

Sự khác biệt về giới giữa Đại thừa, Tiểu thừa

Giới chia ra hai phần: Giới Đại thừa và Giới Tiểu thừa. Mười giới trọng và 48 giới khinh của Bồ-tát là Giới Đại thừa. 250 giới Tỳ-kheo, 348 giới của Tỳ-kheo-ni, 10 giới của Sa-di và Sa-di-ni là Giới Tiểu thừa. Tuy là Tiểu thừa nhưng nếu người thọ giới phát tâm thượng phẩm thì cũng được giới bậc thượng. Thể của giới bậc thượng tương đương tam tụ tịnh Giới Đại thừa. Cho nên Giới Tiểu thừa cũng thông cả Giới Đại thừa. Nên nói: “Trong ẩn hạnh Bồ-tát, ngoài hiện tướng Thinh văn.”

Giới Thinh văn cốt ngăn thân không phạm, Giới Bồ Tát thì ngăn tâm không khởi. Cho nên luận về phạm tội thì Đại thừa và Tiểu thừa không đồng. Theo Giới Đại thừa thì vừa khởi niệm là phạm. Còn Tứ Phần Luật thì tiếp tục khởi niệm sau mới phạm, còn Luật Thập Tụng… thì phải động thân khẩu mới phạm. Đó là những sự khác biệt không thể không biết.

14

Tam Quy – Ngũ Giới:

Bất luận Giới Đại thừa hay Tiểu thừa, đều lấy Tam quy, Ngũ giới làm căn bản. Cho nên, Tam quy, Ngũ giới đối với các hàng Tại gia và Xuất gia đều cực kỳ trọng yếu. (Song giới dâm nơi người Tại gia chỉ cấm tà dâm, còn Xuất gia thì cấm hẳn, phải khéo phân biệt).

Có một việc rất quan trọng liên quan đến vấn đề giới luật mà tôi cần phải nói với quí vị là trong giới căn bản có phần cấm tự tay đào đất, dệt vải v.v…

Chúng ta hiện nay cày ruộng, dệt vải thì có phạm giới không? Chúng ta cần phải biết giới phật chế ra có hai loại: Tánh giới cùng Giá giới.

Tánh giới: là những điều trái lý, dù Phật có chế hay không chế giới, nếu làm thì vẫn phạm tội, như sát, đạo, dâm chẳng hạn.

Giá giới: Khi Phật chưa chế giới mà làm thì không phạm. Chỉ từ khi Phật chế giới về sau, nếu làm mới thành phạm giới, như đào đất, dệt vải…

Phật sở dĩ chế ra Giá giới là vì có các nguyên nhân nên mới chế. Vả lại, tùy xứ, tùy người, tùy thời cơ mà chế giới cho thích nghi.

Luận về đào đất, dệt vải

Như khi Phật chế giới cấm đào đất, dệt vải, mục đích là tránh sự chê bai của người thời đó. Thuở ấy, xã hội Ân Độ có quan niệm người chuyên tu thì phải đi xin, khất thực mới là đúng pháp, đó mới là bổn phận của người xuất gia. Còn nếu tu mà tự đứng ra tự làm, tự túc việc cơm áo thì sẽ bị thế gian hiềm trách. Do vậy Phật mới chế ra giới này.

Chỉ vì phong tục tập quán và thể chế xã hội mỗi nước một khác, chẳng đồng, nên chế giới phải căn cứ vào quốc gia, chỗ ở, sự việc, thời cơ cho thích hợp, chẳng thể giữ mãi một khuôn phép cũ trái thời.

Vì vậy mà trong Ngũ Phần Luật, Phật dạy: “Tuy ta đã chế điều luật ra, rồi nhưng đối với địa phương nào mà nếu thực hành là không thanh tịnh thì chẳng nên áp dụng. Tuy ta không chế giới, nhưng đối với những địa phương bắt buộc phải hành điều này thì không thể không thực hành”.

Do đó, tổ Bách Trượng xét thấy hoàn cảnh Trung Quốc và Ấn Độ chẳng đồng, nên mới đề xướng thuyết “Một ngày không làm là một ngày không ăn” cho thích hợp.

Nếu như Đức Phật giáng sinh nơi đây vào thời điểm này, thì nhất định Ngài không chế giới cấm đào đất và dệt vải. Cho nên chúng ta tuy cày ruộng, dệt vải… mà không phải là phạm giới.

Trong thời điểm này, kính mong quí vị chú trọng việc chuyên tu, không nên từ bỏ lao dộng, trong lúc lao động cũng đừng quên tu, cả hai việc này cần phải phát triển ngang nhau. Như thế chúng ta đối với việc thọ trì các giới, quí ở việc tuân theo, hiểu ý chế giới của Như Lai chứ chẳng phải chấp thủ các điều lệ được ghi thành văn. Nếu nắm được, hiểu rõ ý Phật thì dù có làm trái các giới điều đã ghi thành văn, cũng được gọi là trì giới. Nếu không rõ ý Phật thì dù có tôn trọng và tuân thủ các giới điều đã ghi thành văn, cũng có thể thành là phạm giới. Tuy vậy, cũng không nên viện cớ này lẽ nọ, mà bỏ hết các giới của Phật đã chế, quí vị nếu hiểu sâu Luật tạng thì phải ý thức rõ điều này.

Bồ-tát giới: Tóm tắt có ba: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiếp chúng sanh giới.

  1. Nhiếp luật nghi giới:

Có nghĩa là xa lìa các điều ác. Loại này nếu dừng (chỉ) tức là trì giới, còn làm thì phạm, phải nghiêm cẩn hành trì..

  1. Nhiếp thiện pháp giới:

Làm các điều lành. Thân, khẩu, ý đều lành cùng với ba huệ văn, tư, tu, mười ba-la-mật, tám mươi bốn ngàn hạnh trợ đạo… đều tu rốt ráo. Nhóm này nếu làm là Trì giới, không làm là phạm. Vâng theo lời dạy mà tu, không bao giờ hối tiếc hay thối chuyển.

  1. Nhiếp chúng sinh giới:

Cũng gọi là Nhiêu ích hữu tình giới, nghĩa là không có chúng sanh nào mà chẳng độ, dùng Tứ Vô Lượng làm tâm, Tứ Nhiếp Pháp làm Hạnh.

Tứ Vô Lượng Tâm là: Từ, Bi, Hỷ, Xả,

Từ là ban vui. Bi là cứu khổ.

Hỷ là mừng vui khi thấy chúng sinh lìa khổ rốt ráo, đầy đủ pháp lạc.

Xả là giúp chúng sinh hành theo hạnh Phật, đến chỗ Phật đến, mới sinh tâm Xả.

-Tứ Nhiếp Pháp là: 4 pháp Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự.

Bố thí: nếu chúng sanh ưa tài thí thì bố thí tài, ưa pháp thì bố thí pháp, khiến họ nhân đó sinh tâm ưa mến, muốn thân cận theo mình học đạo.

Ái ngữ nhiếp: Tùy theo căn tánh chúng sinh, dùng lời lành an ủi, khiến họ sanh lòng thương mến thân cận, nương theo ta tu học.

Lợi hành: Thân, khẩu, ý hành động lành đem lại lợi ích cho chúng sinh, khiến họ sanh lòng thương mến thân cận theo ta học đạo.

Đồng sự nhiếp: Dùng mắt pháp quán sát căn cơ của chúng sinh, tùy theo lòng ưa thích của họ mà thị hiện, cùng làm và giúp ích cho họ, để dẫn dắt học đạo.

Nhóm giới này nếu làm là trì giới, không làm là phạm giới.

Tứ hoằng thệ nguyện:

Lại, khi Bồ tát phát tâm nên phát bốn hoằng thệ nguyện:

Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ: Đã phát tâm bồ đề hành đạo Bồ-tát thì cần phải đoạn trừ ngã ái, quên mình vì chúng sanh, lấy tâm chúng sanh làm tâm mình, lấy cái khổ của chúng sinh làm khổ của mình, thường hành từ bi, bình đẳng độ khắp. Như Bồ tát Địa Tạng nguyện độ hết chúng sinh mới chứng Bồ-đề, địa ngục chưa trống, nguyện chẳng thành Phật.

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn: Chúng sinh từ vô lượng kiếp đến nay, trôi lăn trong sinh tử đều do phiền não chưa đoạn.

Phiền não từ cội gốc phát sinh cành lá, lớp lớp chất chồng vô tận. Từ gốc tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… phát sinh vô số cành ngọn lười biếng, buông lung, tật đố, chướng ngại, hôn trầm, tán loạn, xiểm khúc, dối trá, không hổ, không thẹn… Nhưng phiền não tuy nhiều, tóm kết cũng không ngoài hai chấp: Ngã và Pháp. Chúng sanh do chẳng rõ đạo lý duyên khởi tánh không, vọng chấp thân tâm này cho là thật ngã, phân biệt các pháp cho là thật pháp. Do đó vọng chịu khổ báo sanh tử. Thế nên đức Thế Tôn phải lập ra các thức phương tiện, tùy bệnh cho thuốc, nói vô lượng pháp môn nhằm đối trị với vô tận phiền não của chúng sanh. Chúng ta nên vâng theo lời Ngài dạy, tu tập, thệ đoạn phiền não.

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học: Bồ-tát vì lợi ích của loài hữu tình, nên cần học tập vô lượng pháp môn của thế gian và xuất thế gian. Cho nên Bồ tát cần phải học Ngũ minh.

Ngũ minh:

  1. Thanh minh: Biết ngôn ngữ văn tự.
  2. Nhân minh: Phân biệt rõ tà chánh, pháp lý chân ngụy (tức Luận Lý học).
  3. Công xảo minh: Biết tất cả các ngành công nghệ, kỹ thuật, toán lịch…
  4. Y phương minh: Biết Y thuật (Xem bệnh cho thuốc).
  5. Nội minh: Biết rõ tông chỉ của Phật giáo, cho nên bất cứ pháp thế gian hay xuất thế gian, các khoa triết học… đều là các môn Bồ-tát cần học. Lục tổ dạy:

Phật pháp tại thế gian Bất ly thế gian giác Lìa thế tìm Bồ-đề Cũng như tìm sừng thỏ.

Cho nên không phải chỉ nhắm mắt xếp chân mới là tu hành, mà ngay cả gánh nước, bửa củi, cày ruộng, cuốc đất, khoác áo ăn cơm, đi đại tiểu tiện… nghĩa là tất cả thời đều phải dụng công tu. Người xuất gia không phải chỉ biết đóng cửa, ngậm miệng tử thủ một pháp.

Phật pháp vô thượng thệ nguyện thành:

Phật đạo, tiếng Phạn gọi là Bồ-đề, còn dịch là Giác. Giác là tự tính linh diệu sáng suốt. Tính giác này ở Thánh không tăng, ở phàm không giảm, vốn tự viên thành. Ai cũng có. Chư Phật, Thánh nhân thị hiện ra đời làm thầy của trời, người, làm khuôn mẫu cho đời là muốn chỉ cho chúng sinh rằng: Lìa vọng tưởng chấp trước thì có thể thành Phật. Lục Tổ nói: ,

Phật ở trong tự tánh Chớ tìm cầu ngoài thân Tự tánh mê là chúng sinh Tự tánh giác là Phật.

Chúng ta nên bỏ mê về giác, nguyện thành Phật đạo.

Hoằng có nghĩa là sâu rộng, sâu đến tận cùng ba cõi, rộng đến trùm khắp mười phương.

Thệ nghĩa là khắc trong lòng.

Nguyện là lập chí cho đủ. Bồ-tát phải phát các thệ nguỵện như trên, chẳng sợ, chẳng thối chuyển, chẳng dao động, siêng tu dũng mãnh đến tận đời vị lai.

Hư Vân này chẳng qua lập lại lời dạy của Phật để răn bảo hậu lai. Đức Phật Thích Ca đã vì các vị làm Hòa thượng bổn sư. Đức Bồ-tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi làm Yết-ma A-xà-lê. Đức Bồ-tát Di Lặc làm Giáo thọ A-xà-lê. Bảy vị Phật quá khứ cùng hết thảy chư Phật làm Tôn chứng. Chư vị Bồ-tát ở mười phương là dẫn lễ dẫn tán, vì các ông làm bạn đồng học. Tôi tuy nhận lời mời nhưng chỉ vì các ông làm vị Pháp sư giáo giới, cho nên gọi là Hòa thượng Bỉnh Giới. (Bỉnh: cầm, nắm).

Kết khuyên

Khi sắp vào đàn thọ giới, quí vị nên chí thành đảnh lễ chư Phật, Bồ-tát từ bi gia hộ và chư Thiên, Long thần đến đàn hộ giới. Tôi sẽ vì các ông tác pháp hồi hướng.

Các ông mỗi người ở tại trụ xứ của mình, giữ gìn ba nghiệp thanh tịnh, hết sức lắng lòng, trong hai khóa sáu thời, y như pháp mà lễ sám. Phải đùng mành tinh tấn, cẩn thận chớ khởi tham sân mà đánh mât lợi lạc. Cũng chẳng nên khổ nhọc thái quá đến đổ bệnh. Có thể điều hòa ngồi ngay ngăn, đó là “vững ngồi niệm thật tướng“ (đoan tọa niệm thật tướng). Thật tướng tức là bản tâm, bản tâm tức là Phật. Nếu vọng niệm chẳng sanh thì Giới thanh tịnh. Giới thanh tịnh thì Định sanh. Định sanh thì Huệ phát. Phật nói cả Đại Tạng Kinh tức là Giới, là Định, là Huệ. Nếu đã được gốc thì không lo gì ngọn. Nếu chư vị có thể thực hành như thế, y theo đây mà tu thì chẳng mất địa vị giới tử của bốn đàn, mà còn không phụ lòng kỳ vọng của tôi nữa.

Kính mong đại chúng cùng nhau cố gắng. Những vị từ xa đến, ngày mai nên thật hoan hỷ trở về, mỗi người tự thực hành, dụng công!”

(Sư khuyên họ nên trở về trú xứ của mình, chiếu theo ngày Đàn giới tổ chức mà tự thệ thọ giới. Xong việc, Sư sẽ cấp Điệp đàn cho). Sư chỉ giữ lại một trăm người hợp pháp có thể tham dự Giới đàn. Việc này gây chấn động một phen, rồi cũng xong. Thế nhưng, Sư vì chuyện tổ chức giới pháp gặp chướng, trong lòng không an. Nên sau khi Đàn giới viên mãn, Sư cho mở một kỳ thiền thất.

Năm này, khai ruộng trồng lúa, hơn 140 mẫu.

Các bài giảng của Hòa thượng Hư Vân:

  1. BÀN VỀ NHÂN QUẢ

Thứ hai, 11/3 nhuần, năm Ất Mùi (1955)

Phật Thích Ca thuyết pháp 49 năm, giảng kinh hơn ba trăm hội, đúc kết thành 12 bộ kinh, ba tạng: Kinh, Luật, Luận. Ba tạng này không ngoài tam học Giới, Định, Huệ. Kinh là học Định, Luật là học Giới. Luận là học Huệ.

Nếu nói tóm lược thì có thể đùng 2 từ Nhân Quả cũng đủ để giải thích tổng quát các pháp Phật thuyết. Hai chữ Nhân Quả này bao hàm tất cả Thánh, Phàm, Thế gian, Xuất thế gian, không ai thoát khỏi. Nhân là Nhân duyên. Quả là Quả báo. Thí như trồng trọt, gieo một hạt là Nhân, tùy nhân duyên thời tiết, thu hoạch được là Quả. Nếu không có Nhân nhất định không có Quả. Tất cả Thánh, Hiền sở dĩ là Thánh, Hiền điều quan trọng chính là nhờ hiểu rõ Nhân Quả. Phàm phu sợ quả nhưng Bồ-tát sợ nhân.

Phàm phu chỉ sợ ác quả, mà chẳng biết ác quả phát xuất từ ác nhân. Bình thường cứ mặc tình làm quấy, miễn sao được vui sướng nhất thời, mà chẳng hề suy xét vui đấy chính là nhân khổ. Còn Bồ-tát thì chẳng thế. Bình thường nhất cử nhất động các Ngài đều cẩn trọng gìn giữ thân tâm, biết ngăn ngừa ngay từ mầm mống. Đã không tạo nhân ác làm sao có quả ác? – Cho dù có quả ác đi nữa, thì tất cả đều là do nhân gieo lâu xa từ thuở trước, Đã thuộc nhân gieo thuở xa xưa, tức nhiên hậu quả khó tránh. Nên lúc nhận quả, các Ngài an nhiên nhận lấy, tuyệt chẳng sợ hãi. Đây gọi là hiểu rõ nhân quả (minh nhân thức quả).

Xin đơn cử câu chuyện cổ nhân:

Ngài An Thế Cao

“Sư An Thế Cao, nhiều đời tu trì, kiếp đầu tiên sinh làm Thái tử nước An Tức. Ngài xả ly ngũ dục, xuất gia tu chứng được Túc mệnh thông, biết kiếp trước bản thân mình có thiếu nợ mạng với người – mà chủ nợ hiện đang ở Trung Quốc. Thế là Ngài vượt biển sang Lạc Dương. Đi đến một vùng hoang vắng không người thì bỗng gặp một thiếu niên mình giắt đao sáng ngời, anh này vừa nhìn thấy Sư từ xa xa, thì đã bừng bừng thịnh nộ, nhào tới gần Ngài, chẳng nói chẳng rằng, vung đao giết ngay.

Pháp sư chết rồi, thần thức tiếp tục đầu thai vào nước An Tức. Lại làm Thái tử, đến lúc trưởng thành cũng phát tâm xuất gia và chứng Túc mệnh thông y như cũ. Ngài quán sát thấy đời này mình vẫn còn thiếu nợ mạng chưa trả, chủ nợ kỳ này cũng ở tại Lạc Dương. Thế là Pháp sư lại tìm sang đó. Ngài đến ngôi nhà người chủ nợ đầu tiên (từng giết mình trước đây) xin tá túc. Được ông ta mời dùng bữa. Ăn cơm xong Ngài hỏi chủ nhà: – Ông nhận ra tôi chăng? Chủ nhà đáp: – Tôi chưa hề quen sư. Ngài bảo: – Tôi chính là vị tăng ông đã giết năm đó… tháng đó… ngày đó… tại đồng hoang … Chủ nhà hết hồn, thầm nghĩ: “‘Việc này ngoài nạn nhân ra không ai có thể biết được. Ông sư này chắc chắn là hồn ma hiện… tới đòi mạng minh?” Chủ nhà sợ lắm, chỉ muốn co giò chạy trốn, Sư thấy thế bảo: – “Đừng sợ, tôi không phải là quỷ đâu! Và giải thích mọi chuyện cho chủ nhà rõ. Sau đó Sư bảo chủ nhà:- “Ngày mai tôi sẽ bị người giết chết để đền nợ xưa. Do vậy mà tôi tới đây nhờ ông giúp. Xin ông ngày mai hãy làm chứng giùm, chịu khó thuật lại cho quan nghe di ngôn của tôi, hãy giải thích rằng – Tôi chết đây là vì phải đền nợ mạng, xin quan hiểu mà không trị tội người giết tôi.

Nói xong, cả hai đi ngủ. Sáng hôm sau, họ cùng ra ngoài. Trên đường, họ gặp một người trong làng đang gánh củi. Vị Tăng đang đi phía trước anh tiều thì bất ngờ bó củi phía trước của anh rơi xuống, bó củi phía sau cũng rơi nốt, làm cây đòn gánh bất thần quật ngược ra trước, đánh thẳng vào đầu vị Tăng, trúng ngay chỗ hiểm khiến ông chết liền. Anh hàng xóm tức tốc bị giải lên quan thẩm tra định tội. Chủ nhà thấy việc xảy ra ứng hợp như lời vị Tăng kể. Bèn thuật lại cho quan nghe những gì vị Tăng đã dặn dò. Quan nghe xong, càng tin nhân quả không sai, liền tha tội ngộ sát cho anh gánh củi.

Hồn vị Tăng lại đầu thai vào nước An Tức, kiêp thứ ba này cũng làm Thái tử, lại xuất gia tu, thành là Pháp sư An Thế Cao”.

Qua câu chuyện này, có thể thấy rằng Thánh, Hiền không mê mờ nhân quả. Đã từng gieo ác nhân, tất phải chiêu ác quả. Nếu hiểu rõ lý này thì ngày thường trong cuộc sống, có gặp phải các cảnh thuận, nghịch, khổ vui gì, thảy đều do tiền nhân. Chẳng nên ở nơi cảnh vọng sinh yêu ghét, tự nhiên có thể buông xả được. Nếu quý vị một lòng vì đạo, biết chuyển hóa, khiến tập khí xấu, vô minh cống cao… thành vô chướng ngại, thì sẽ vào đạo dễ dàng.

  1. KHUYÊN TU

Thứ ba, 12 tháng 3 nhuần Ất Mùi (1955)

Cổ nhân vì sinh tử sự đại, tìm thầy hỏi bạn, chẳng ngại trèo đèo vượt suối, nhọc nhằn bôn ba. Chúng ta từ vô thỉ đến nay bị vọng tưởng ngăn che, trần lao buộc trói, quên mất bản lai diện mục. Thí dụ như tấm gương, xưa nay vốn sáng rỡ quang minh, có thể chiếu trời soi đất, do bị bụi bẩn bao phủ che lấp, nên chẳng thấy quang minh. Nay muốn hồi phục nguyên trạng, chỉ cần ra công tẩy rửa lau chùi, thì bản chất sáng trong của gương sẽ hiển lộ.

Tâm tính chúng ta cũng giống thế, cùng chư Phật đồng nhất, không hề khác biệt, chẳng thiếu chẳng dư. Vì sao chư Phật đã sớm thành Phật, còn chư vị và tôi vẫn còn là phàm phu trôi lăn trong biển khổ sinh tử? – Bởi vì tâm tính chúng ta bị vọng tưởng, phiền não tập khí xấu, lớp lớp bủa vây che lấp – dù tâm tính này cùng Phật không khác, song chẳng thể dùng được – Nay các vị và tôi đã xuất gia, đồng làm đệ tử Phật, đã muốn minh tâm kiến tánh, phản bổn hoàn nguyên. Nếu không chịu ra sức khổ tu thì khó thể thành tựu, cổ nhân xưa đã từng ngàn cay trăm đắng, đi tham bái Thiện tri thức, chỉ vì muốn sáng việc của mình. Hiện nay đã là thời mạt pháp, cách Phật rất xa. Giáo pháp chìm lạc, người nhiều lười biếng, cho nên khó liễu sinh tử. Giờ đã biết tâm mình cùng Phật tương đồng, thì quý vị cần phải phát tâm tàm quý, dũng mãnh, lâu dài, trường viễn… Suốt 12 thời, phải gắng công mài giũa, kiên tâm rèn luyện. Sáng dụng công như thế, chiều cũng dụng công như thế. Hãy cố gắng tinh tấn tu, đừng để thời gian trôi qua trong sai lầm đáng tiếc.

  1. LUẬN VỀ THÀNH ĐẠO

Thứ tư 13 tháng 3 nhuần Ất Mùi (1955)

Cổ nhân nói: “Xưa nay, thành đạo dễ, trừ vọng tưởng mới khó” Luận về Đạo, Lý, Tâm thì Tâm, Phật, Chúng sinh cả ba đều vô sai biệt. Bản tính chân thật của từng người mỗi mỗi sẵn có. Tại Thánh bất tăng, tại Phàm bất giảm. Nếu người biết Đại Địa Tâm không một tấc đất, tất cả Thế và Xuất thế gian, nào Phàm nào Thánh, bổn lai vốn không, chẳng có sinh tử. Nên nói: “Xưa nay thành đạo dễ” – Tâm này tuy vi diệu sáng suôt (diệu minh), nhưng do bị vọng tưởng lớp lớp ngăn che, nên ánh sáng không thể hiển lộ. Mà muốn trừ vọng tưởng cũng chẳng dễ. Vọng tưởng có hai loại: Một – vọng nhẹ. Hai – vọng thô. Lại phân ra Vọng tưởng hữu lậu, Vọng tưởng vô lậu. Vọng hữu lậu thì chiêu cảm quả báo khổ, vui nhân thiên. Còn Vọng vô lậu thì có thể thành Phật tác Tổ, liễu sinh thoát tử, siêu xuất tam giới.

Vọng tưởng thô (là vọng tưởng trược uế) thì chiêu cảm quả khổ nơi ba cõi: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh. Vọng tưởng khinh (thanh nhẹ) thì tạo đủ các việc thiện như niệm Phật, tham thiền, tụng kinh, trì chú, lễ lạy, giữ giới sát, phóng sinh v.v.. Vọng tưởng thô tương ứng với nghiệp Thập ác: Ý khởi Tham, Sân, Si, Khẩu nói lời vọng ngôn ỷ ngữ, ác khẩu lưỡng thiệt. Thân hành Sát, Đạo, Dâm, tất cả đều là nghiệp Thập ác do Thân, Khẩu, Ý tạo ra. Tùy mức độ khinh trọng mà chia ra Thập ác Thượng phẩm (cực nặng) thì đọa Địa ngục, Thập ác bực Trung thì đọa Ngạ quỷ, Thập ác bậc Hạ thì đọa Súc sinh.

Nói tóm lại, bất kể vọng tưởng thô hoặc khinh, (thanh hay trược), đều là một niệm hiện tiền của chúng ta – Mười cõi giới đều do một niệm này tạo thành, nên nói “Nhất thiết duy tâm tạo”. Nếu nói về căn bản thì chúng ta: Nguồn cội vốn phong quang: chẳng dính mảy tơ, chẳng nhiễm mảy trần (nhất ty bất quải, tiềm trần bất nhiễm), về Vọng thô (trược) thì chẳng cần phải nói, nếu tạm có chút Vọng khinh (thanh nhẹ), thì cũng là mệnh căn sinh tử chưa đoạn. Hiện nay đã nói trừ vọng tưởng thì cần nhất là phải nhờ một câu thoại đầu hay một danh hiệu Phật để mở cửa vào. Đây gọi là dùng Vọng khinh thay thế, chế phục Vọng thô, đùng thiện công phá ác, trước hàng phục Vọng thô bằng vọng Thanh (thiện lành) thì cũng có thể cùng đạo tương ưng. Tập luyện lâu ngày, công thuần hạnh đạt, cuối cùng vọng khinh cũng không luôn.

Mỗi người chúng ta đều biết rõ vọng tưởng không tốt, muốn đoạn vọng tưởng, nhưng lại bị tập khí điều khiển cuốn trôi, vì (minh tri) biết rõ mà cố phạm. Ta đã quen khởi vọng tưởng, gặp nghịch cảnh thì khởi vô minh, thậm chí còn bị các tính xấu làm biếng, cầu danh, hám lợi, nhớ nghĩ dâm dục v.v… lôi cuốn. Khi vọng tưởng khởi lên, đã biết là vọng tưởng không tốt, nhưng lại cứ buông thả, lao theo nó chẳng thể dừng – là vì sao vậy? – Bởi vì từ vô thỉ kiếp đến nay, tập khí ô nhiễm huân sâu đã thành thói quen, giống hệt như con chó mê ăn phân vậy. Tuy chư vị có cho nó thức ăn ngon, hảo hạng, nhưng hễ nó nghe mùi phân là nhào tới ăn liền. Đây gọi là thói quen huân lâu thành tính.

Cổ nhân dụng công rất miên mật. Xưa nay hành vi của chư Tổ sư, đều nhắm vào giúp người cắt đứt, đoạn trừ vọng tưởng. Hiện nay các vị và tôi xuất gia đi hành cước tham học, đều vì chưa liễu sinh tử. Cần phải sinh lòng đại hổ thẹn, phát tâm đại dũng mãnh, không theo vọng tưởng, không để vọng cảnh xoay chuyển. Giả như có vòng sắt nóng trên đầu, cũng chẳng cho đó là khổ mà đánh mất tâm Bồ-đề – Bồ-đề là giác, giác tức là đạo. Đạo tức là bản tâm vi diệu này. Nên biết tâm này xưa nay vốn đầy đủ viên mãn. Chưa tạm có khiếm khuyết. Muốn tu thì phải quay vào tự tánh, phải tự mình phát tâm. Nếu mình không phát tâm, thì dù Phật Thích Ca có quay trở lại thế gian này, e rằng cũng không giúp được gì cho quý vị.

Suốt 12 thời, bất kể đi đứng nằm ngồi động tĩnh… tâm thể tự như như, vọng tưởng không sinh, lo gì sinh tử chẳng liễu. Nếu không như vậy thì là lăng xăng không đâu. Từ sáng đến tối, từ lúc sinh ra cho đến khi chết, quý vị đã bỏ phí thời giờ trôi suông. Tuy nói tu cả đời nhưng không thành công cán gì. Ngày 30 tháng chạp đến, khát nước mới lo đào giếng, e không còn kịp, lúc đó có hối cũng muộn màng. Tôi tha thiết xin mọi người hãy nỗ lực, cố gắng dụng tâm.

  1. BẬN RỘN VẪN TU ĐƯỢC

Thứ năm 14 tháng 3 nhuần Ất Mùi (1955)

Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu năng chuyền tức đồng Như Lai”. Nghĩa là tất cả Thánh hiền khéo chuyển vạn vật, chẳng bị vật chuyển. Tùy tâm tự tại, chốn chốn chân như. Còn phàm phu chúng ta, do vọng tưởng làm chướng, nên bị vật chuyển. Ta yếu ớt như cỏ, hễ gió đông thổi thì dạt về tây, gió tây thổi thì ngã về đông, chẳng thể làm chủ. Có người cả ngày lăng xăng, tán tâm phóng dật, lòng chẳng ở nơi đạo, tuy có dụng công nhưng lại lúc có lúc không, chẳng miên mật. Bình thường cứ quay mòng theo vui buồn, giận ghét; chìm đắm trong phiền não thị phi. Hễ sáu căn tiếp xúc với sáu trần là mất giác chiếu, chạy theo trần cảnh. Vừa lòng thì sinh ưa, nghịch ý thì sinh ghét. Trong tâm thường khởi vọng tưởng. Có hai loại vọng tưởng: Vọng thiện – gọi là vọng tưởng thanh, (nhẹ) có thể dùng để hành đạo, tạo việc lành. Còn Vọng ác – tức vọng tưởng (thô) mang đủ tà niệm bất chánh, uế trược dẫy đầy, khó mà tả hết. Thiền sư Bạch Vân Đoan có làm bài tụng rằng:

Nhược năng chuyển vật tức Như Lai Xuân noãn sơn hoa xứ xứ khai Tự hữu nhất song cùng tương thủ Bất hội dung dị vũ tam đài

Nếu khéo chuyển vật là Như Lai Xuân ấm khắp non hoa nở đầy Tự có một đôi tay tương trợ Nào biết dễ dàng xoay, múa may

Kinh Kim Cang nói:

“Ưng như thị hàng phục kỳ tâm“1Phật tử chúng ta, hãy thống thiết lo việc sinh tử, như cứu lửa cháy đầu. Nên buông bỏ thân tâm, tinh tấn cầu đạo, siêng năng dụng công, mài luyện mình lần lần để đạt đến không bị vật chuyển là nắm được công phu. Dụng công không nhất định chỉ tu trong lúc tịnh mà phải tu cả trong động, nếu trong cảnh động tu được không loạn mới là công phu chân thật.

Xin kể quý vị nghe một tấm gương tu trong cảnh động:

“Đầu thời Minh, ở Hồ Nam có một anh thợ sống bằng nghề rèn sắt. Người ta gọi anh là Hoàng Đả Thiết. Hồi đó gặp lúc Chu Hồng Vũ hưng binh tác chiến nên đặt làm rất nhiều binh khí. Hoàng Đả Thiết vâng lịnh chế binh khí, ngày đêm không nghỉ. Hôm nọ có một vị Tăng khất thực đi ngang nhà ông, Hoàng cúng đường thức ăn. Thọ thực xong, vị Tăng bảo:

-Tôi nay nhận bố thí không thể không báo đáp. Hiện có một câu muốn tặng ông đây: – ông vì sao chẳng chịu tu vậy?

Hoàng thưa: – Đã biết tu hành là việc tốt, nhưng tiếc là tôi cả ngày bận rộn, làm sao mà tu được?

Tăng nói: – Có một pháp môn niệm Phật rất thích hợp, cho dù bận mấy cũng tu được. Thế này nhé, ông hãy vừa rèn, vừa niệm danh Phật, hễ kéo bể một cái là niệm Phật một tiếng. Chịu khó thực hành trường kỳ như thế, chuyên tâm niệm “Nam mô A-di-đà Phật,,, bảo đảm đến lúc mệnh chung ông sẽ được vãng sinh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. .

Hoàng Đả Thiết làm y theo lời vị Tăng dạy, vừa đập sắt, vừa niệm Phật, cả ngày đập sắt là cả ngày niệm Phật. Không những ông cảm thấy không mệt nhọc, mà tâm tư còn rất khinh an tự tại. Lâu ngày công phu thuần thục, không niệm mà tự niệm, ông dần dần ngộ nhập. Lúc gần mệnh chung ông tự biết trước, bèn đi chào hết thảy bạn bè. nói là mình sắp được vãng sinh Tây Phương. Đến ngày mệnh chung, ông giao việc lại cho người nhà, tự tắm rửa thay y phục rồi đến bên lò rèn, cũng đập, cũng rèn mấy cái và đọc kệ:

Đinh đinh đương đương Cửu luyện thành cương Thái bình tương cận Ngã vãng tây phương

Chát chát chang chang! Sắt rèn thiệt ngon! Tâm dần thanh bình Ta về Tây phương.

Rồi ông dừng tay, viên tịch. Lúc này hương thơm đầy nhà, nhạc trời trỗi giữa không, xa gần đều nghe, không ai là không xúc động?,.

Chúng ta hiện nay cũng cả ngày bận không ngừng nghỉ, nếu có thể học theo gương Hoàng Đả Thiết, trong lúc làm việc cũng ráng sức dụng công, nỗ lực, thì lo gì chẳng liễu sinh thoát tử? Tôi ngày xưa tại núi Kê Túc, Vân Nam có độ cho Cụ Hành xuất gia. Cụ Hành hồi chưa xuất gia, có tính ghiền hút thuốc, mê uống rượu, ưa đủ thứ. Nhưng sau khi gia đình ông (tất cả tám người) đến chùa Chúc Thánh công quả và xuất gia rồi thì ông từ bỏ hết, bỏ rượu, bỏ thuốc… Dù không biết chữ nhưng ông vẫn ráng tụng Kinh Phổ Môn v.v… chưa đầy mấy năm đã thuộc làu. Ông lo trông trọt, cả ngày siêng năng làm việc không ngừng. Tối đến thì tinh tấn lễ Phật tụng kinh, không ham ngủ nghỉ. Trong chúng đối thế nào ông cũng không lưu tâm, có thương ông cũng chẳng màng, có ghét ông cũng chẳng để ý. Ông nhận may vá đồ cho chúng, cứ một mũi kim là niệm một câu Phật: “Nam mô Quan-Thế-Âm Bồ-Tát”, không mũi nào là không niệm, liên tục miên mật..

Sau đó ông đi triều lễ tứ đại danh sơn, trải qua tám năm. Lúc ông về lại Vân Nam thì tôi đang xây dựng trùng hưng chùa Vân Thê. Thế là việc lớn việc nhỏ trong chùa đều ông đều tình nguyện làm tất, khổ mấy, khó mấy cũng không từ, đại chúng đều thích ông. Lúc gần mất, ông đem y phục bán, thiêt trai cúng đường chúng. Sau đó hướng đại chúng cáo từ.

Ông sắp xếp mọi việc xong thì khoảng tháng Tư, vào mùa thu hoạch dầu cải, ông đem mấy bó rơm khô ra hậu viên Hạ Viện Thắng Nhân (chùa Vân Thê tỉnh Vân Nam) tự thiêu, nhẹ nhàng mà hóa.

Đến khi người phát giác kịp thì ông đã vãng sinh rồi. Chỉ thấy ông ngồi đoan tọa trong lửa, tay cầm mõ khánh, dù đã thành tro song y phục vẫn giữ nguyên nếp, quấn quanh thân ông không rơi xuống. Người chứng kiến đều hoan hỉ tán thán. Ông hằng ngày làm lụng không ngừng, tuyệt không quên dụng công tu hành, cho nên lúc ra đi mới được như vậy. Tu trong cảnh động so với tu trong cảnh tĩnh, xem ra không khó, song rất đắc lực và hiệu quả.

  1. ĐẠO ĐỨC LÀ TÔN QUÝ NHẤT

Thứ năm, 21 tháng 3 nhuần, Ất Mùi (1955)

Cổ nhân tu hành, có đạo đức cao thượng tự nhiên khiến Thiên, Long, Quỷ thần cảm động theo ủng hộ, bởi vì “Đạo đức là tôn quý nhất trên dời”. Cho nên nói: “Đạo cao long hổ phục. Đức trọng quỷ thần khâm”.

Quỷ thần và người, mỗi mỗi đều có cõi giới, nét tôn quý riêng. Vì lẽ gì chư Thiên, Quỷ thần lại đi tôn kính cõi người? Xưa nay linh minh diệu tính không phân kia đây, đồng quy một thể. Nhân vì vô minh bất giác, mê mờ chân nguyên nên mới phân ra mười cõi: tứ Thánh, lục Phàm. Nếu như muốn từ mê chuyển sang ngộ, phản bổn hoàn nguyên, thì trình độ giác ngộ mỗi cõi không đồng.

Trong cõi người, có giác và bất giác. Tri giác có tà có chánh. Chư Thiên, Quỷ thần cũng vậy. Cõi người ở vào vị thứ năm trong sáu cõi phàm. Vì cõi trời Lục dục còn ưa nữ sắc, nên quên tu hành, cõi trời Tứ thiền ưa đơn lẽ thích thiền vị, nhưng lại quên minh ngộ chơn tâm. Cõi trời Tứ không thì lạc về thiên kiến chấp không, quên Chánh tri kiến. Cõi A-tu-la thì chìm trong sân giận, còn Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh thì khổ không thể nói. Thảy đều không có chánh niệm, khó thể tu hành. Chỉ có cõi người khổ vui chẳng đồng, nhưng so với các cõi kia thì dễ giác ngộ, có thể minh tâm kiến tánh, siêu phàm nhập Thánh. Chư Thiên, Quỷ thần tuy có thần thông, nhưng thảy đều tôn trọng người có đạo đức. Họ có thần thông lớn nhỏ, phúc báo chẳng đồng. Song thảy đều kính mộ chính đạo.

Thiền sư Nguyên Khuê cất am tranh nơi ngọn núi to trong dãy Ngũ Nhạc, từng truyền giới cho thọ thần. Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục ghi:

“Ngày nọ có một dị nhân, đội mão cao áo rộng đến, dẫn theo rất đông tùy tùng đến gặp Đại sư, Sư liếc thấy vị này vóc dáng khôi vĩ, hình mạo kỳ lạ phi thường, nhưng vẫn nói:

-Lành thay nhân giả, vì sao đến đây?

Ông ta thưa:

-Thầy nhận ra con chăng?

Sư bảo: -Ta quán Phật và chúng sinh bình đẳng, nên nhìn ông đâu có phân biệt.

-Con là Thần núi. Nắm việc sinh tử của người. Sư vẫn an chứ.

-Ta vốn vô sinh ông đâu thể làm tử, ta thấy thân mình cùng hư không bình đẳng, thấy ông cùng ta bình đẳng. Vậy ông có thể hoại hư không và ta chăng? ông chẳng thể làm thế thì sao có thể nắm giữ sinh tử của ta?

Thần dập đầu thưa:

-Con cũng là vị thần thông minh chánh trực. Biết Thầy trí huệ quảng đại. Xin Ngài hãy truyền cho con chính giới, thâu con làm đệ tử.

Sư giảng giải trao truyền Ngũ giới xong.

Thần thưa: – Con thần thông gần bằng Phật.

Sư nói: – Thần thông ông dù có đủ mười, nhưng năm phần ông có thể làm và năm phần không. Phật có đủ mười, nhưng Phật bảy phần có thể làm và ba phần không. Thần quỳ thưa: – Xin hãy giải thích cho con nghe.

Sư hỏi: Ông có thể làm mặt trời mọc ở Tây lặn ở Đông? Có thể đoạt đất thổ thần, dung hợp năm núi kết thành bốn biển chăng?

-Dạ không.

Đó là năm điều không thể của ông. Còn ba điều không thể của Phật là: Phật có thể không tất cả tướng, thành tựu Vạn pháp trí mà không diệt được định nghiệp. Phật có thể biết rõ tính mọi loài hữu tình cùng các việc trong ức kiếp, nhưng không thể hóa độ người không có duyên. Phật có thể độ vô lượng hữu tình nhưng không thể làm hết cõi chúng sinh.

Thần nói:

-Con hiểu biết cạn, kiến thức còn kém, chưa nghe đạo mầu. Nay được Thầy truyền giới xin nguyện phụng hành. Lòng muốn báo đáp từ đức của Thầy, mong được thực hiện những việc thuộc khả năng con.

Sư nói: -Ta quán thân vô vật, quán pháp vô thường. Tất nhiên đâu có mong muốn gì.

Thần thưa:

-Xin Thầy hãy lệnh cho con làm chút việc gì cho thế gian, biểu hiện chút công năng nhỏ, để người mới phát tâm và người chưa phát tâm biết có Phật có Thần.

Sư nói: Ta không làm thế, không làm đâu!

Thần thưa: – Phật cũng dùng thần thông hộ pháp. Xin Thầy hãy chiu ý ban cho con chỉ thị…

Sư bất đắc dĩ bảo:

-Phía Đông núi chùa có trở ngại là, cỏ rậm mọc đầy mà không cây to, còn phía Bắc núi thì có cây to nhưng sau lưng thế không vững chắc. Ông có thể dời rừng cây phía Bắc sang phía Đông núi không? Thần thưa:

-Thầy đã phán lịnh, đêm đến con sẽ làm ngay. Xin Thầy đừng kinh hãi.

Nói xong thần làm lễ từ biệt. Sư nhìn theo thấy dáng dấp thần như vương giả, tùy tùng đi theo như hầu vua. Mây ngũ sắc bao quanh lớp lớp, tràng phan, ngọc bội đan xen, thần bay vút lên trời cao biến mất.

Tối đó quả nhiên gió dữ sấm to, mây mù vần vũ, sấm nháng chớp xẹt, chùa chấn động đến rung rinh. Nghe tiếng ầm ầm vang rền trong đêm. Sư bảo chúng: Đừng sợ! Đừng sợ! Chuyện này Thần đã nói trước với ta rồi.

Sáng mai trời tạnh, thấy tất cả cây cối phía Bắc núi đều đã dời sang Đông hết. Rừng cây thẳng tắp. Sư gọi đồ chúng bảo: – Không nên cho người ngoài biết, nếu kể lại họ sẽ cho ta là yêu quái”.

Xem đấy, thần núi tuy có thần thông vẫn không bằng người có đạo đức. Đây chính là “Đức trọng quỷ thần khâm (phục)”. Người không có đạo đức sẽ bị quỷ thần quản, thọ nhận họa hại. Muốn có đạo đức thì phải minh tâm kiến tánh, tự nhiên cảm hóa được quỷ thần. Xưa nay, Thiền sư đức lớn kinh thiên động địa, nên cảm nai ngậm hoa, khỉ dâng trái cúng. Khiến Thiên ma ngoại đạo, chư Tiên, Quỷ thần đều đến qui y. Như Chân Tổ sư quy y Quan Âm, Tài Thần quy y Phổ Hiền, Tiên Đồng Tân quy y Hoàng Long, Vương Linh Quan qui y Địa Tạng, Văn Xương qui y Phật Thích Ca v.v…

Thế nên Hoàng đế Nhân Tông triều tống có làm bài phú tán thán Tăng rằng:

“Điều quý nhất trong thế gian là chẳng gì bằng xả tục xuất gia. Nếu được làm Tăng. Tất thọ nhân thiên cúng dường. Là đệ tử Như Lai. Làm quyến thuộc chư Thánh. Ra vào nơi kim môn. Hành tàng nơi Bảo điện. Nai ngậm hoa dâng, khỉ rừng hiến quả cúng. Xuân nghe oanh hót chim ca. Nhạc diệu máy trời. Hạ nghe ve kêu rừng thẳm. Nào biết nóng bức. Thu ngắm gió mát trăng thanh, ngàn sao lấp lánh. Đông nhìn đỉnh núi tuyết phủ, lạnh cả núi sông. Ngồi thiền ấm áp, mặc ba đào dậy sóng, vỗ tích trượng thoát vào không. Bao nhiêu thập đại quỷ quân, nghe danh là hồi quy chánh đạo. Bảng gõ tiến Đường ứng cúng, chuông kêu lên Điện tụng kinh, ban ban như ý, chủng chủng hiện thành. Khi sống làm thầy trời người. Viên tịch thì về quả Thánh.

Kệ rằng:

Không vương đệ tử Phật Làm thân quyến Như Lai Thân khoác y trăm mảnh Thọ thực gạo ngàn chung Đêm ngồi giường vô úy Ngày ngắm Phật Di Đà Trẫm nếu được như thế Thật ngàn vạn đủ đầy!

Bài văn tán thán này, chúng ta phải cầm nó lên xem, để mà đối chiếu so sánh xem điểm nào mình tương ưng? Điểm nào chúng ta chưa làm được? Nếu như mỗi câu trong đây ta đều xứng hợp thì đáng được quỷ thần tôn trọng. Còn như ba đào dậy sóng mà không thể “Vỗ tích trượng thoát vào không”. Hễ vô minh vừa khởi thì làm ầm náo đến trời rung đất chuyển, thì… xấu hổ chết đi! Nếu khéo hàng phục tâm mình thì Ngũ nhạc quỷ thần, Thiên long bát bộ thảy đều tôn kính ông.

  1. BÀN VỀ KINH, TRUYỆN

Chủ nhật 24 tháng 3 nhuần Ất Mùi (1955)

Mấy ngày nay chư vị đạo hữu đồng tham, phát tâm muốn ghi lại lời giảng của tôi. Tôi thấy đây là việc vô ích. Bởi vì Kinh điển Ngữ lục của Phật, .Tổ có nhiều vô số còn ít người xem, huống nữa là ghi lại mấy lời lảm nhảm chỉ đông trỏ tây của tôi, nào có ích dụng gì?

Xưa nay “Một pháp thông thời tất cả pháp thông”. Chẳng do xem kinh điển nhiều. Xem Tạng kinh, chỉ ba năm là có thể xong hết. Nhưng xem kinh như vậy cũng giống như cưỡi ngựa ngắm hoa. Muốn trồng thiện căn, huân hạt giống Phật, hưởng được ích lợi chân thật, thì xem kinh phải đọc cho nhuần nhuyễn đến thuộc làu. Theo ngu kiến của tôi, tốt nhất là nên chuyên đọc một bộ Kinh Lăng Nghiêm, (chỉ cần đọc thuộc chánh văn, không cần xem chú giải), đọc thuộc rồi, thì có thể đem tiền văn giải hậu văn, đem hậu văn giải tiền văn) Kinh này tả rõ ràng tinh tế việc tu chứng mê ngộ, lý sự nhân quả, giới luật… Từ phàm phu đến thành Phật, từ vô tình đến hữu tình, sơn hà đại địa, tứ Thánh lục Phàm, đều giải rõ hết… Vì vậy học thuộc Kinh Lăng Nghiêm rất có ích. Phàm là người đang tham học, tốt nhất cần hội đủ ba điều kiện: 1- Phải có đôi mắt mắt sáng. 2- Đôi tai thính. 3- Cái bụng tốt.

1- Mắt tỏ tức là Chánh nhãn kim cương, hễ nhìn tất cả sự vật liền có thể phân rõ tà, chánh thánh phàm, phải trái, tốt xấu, biệt biện được và không bị lầm lạc.

2- Lỗ tai tốt là, vừa nghe thì biết lời thuộc loại nào.

3- Bụng tốt thì giống như lão Bố Đại (Hoá thân Bồ-tát Di Lặc). Nghĩa là tất cả những gì mình nghe thấy, tốt đẹp hay xấu xa đều dồn hết vào bao. Gặp duyên tùy cơ, đem sở kiến sở văn từ trong bao ra, so sánh nghiên cứu, chọn thiện mà theo, và sửa những bất thiện trong đó, không nên nói quàng xiên. Lời thốt ra cần hợp điển chương, đàm luận vẫn phải tra cứu theo xưa. Do vậy mà kinh điển không thể không xem, xem sẽ được lợi ích. Tôi hồ đồ nói loạn, thốt không ra nửa câu tốt lành. Hồi trẻ dù có xem kinh sách, song chỉ dùng để bàn luận suông, thiệt là xấu hổ.

Hiện trong nhân gian có lưu truyền truyện Tây Du Ký, Mục Liên. Đều là trong, đục chẳng phân, thị phi điên đảo! Vì biến chân thành giả – giả thành chân. Truyện Mục Liên kể chuyện Tôn giả Mục Liên rồi dẫn bừa đến Kinh Địa Tạng, lại đem Địa Tạng biến thành Mục Liên v.v… Toàn là nói nhảm.

Pháp sư Huyền Trang có “Đại Đường Tây Vực Ký”, nội dung viết trong cuốn này rất chân thật. Vậy mà thế gian lại lưu truyền quyển Tiểu thuyết Tây Du Ký, nói toàn lời xằng bậy (quỷ thoại).

Nguyên nhân sản sinh quyển truyện này là do Hòa thượng Bạch Vân ở Bạch Vân Tự (Bắc Kinh) giảng Đạo Đức Kinh, rất nhiều đạo sĩ khi nghe giảng xong đều đổi sang làm Hòa thượng khiến các Đạo sĩ bên Trường Xuân Quán bất mãn thưa kiện lên quan.

Kết quả sau vụ kiện tụng, Trường Xuân Quán bị đổi thành Trường Xuân Tự, Bạch Vân Tự thì đổi thành Bạch Vân Quán. Bên Đạo sĩ bèn viết ra bộ tiểu thuyết Tây Du Ký để mạ Phật giáo.

Người xem Tây Du Kỷ nếu sáng trí, biết nhìn từ quan điểm này thì sẽ thầm nhận ra chân tướng và thấy rõ thâm ý kia bàng bạc trong sách. Hại nhất là việc tả Đường Tăng sau khi lấy kinh trở về đến sông Lưu Sa thì toàn bộ Phật kinh đều không có, chỉ còn 6 chữ “Nam Mô A Di Đà Phật,,, đây rõ ràng là đem công trình phiên dịch kinh Phật của Pháp sư Huyền Trang phủi bỏ hết!

Đáng tiếc là Thế nhân lại tin bộ Tây Du Ký giả, rồi quên hẳn bộ Tây Vực Ký thật. Sau đó thì bộ truyện Phong Thần Bảng được tung ra để đáp lễ bộ Tây Du Ký. (Kế sách này là do bên Hòa thượng mạ Đạo sĩ). Nếu xem từ quan điểm này, sẽ thấy trong sách chỗ chỗ đều là mạ Đạo sĩ. Thí dụ như nói Đạo sĩ tu Tiên tất có kiếp số, lần lượt bị đao trảm.

Xem hai bộ tiểu thuyết này, nếu như không hiểu rõ thâm ý mạ nhau giữa Phật Giáo và Lão giáo thì sẽ nhận giả làm chân. Cho nên đọc sách cần có con mắt sáng, biết nhận thức đúng sai, giỏi phân biệt tà chánh.

Còn như Truyện “Bạch Xà Thủy Tẩm Kim Sơn Tự“ (Bạch Xà nhận nước Kim Sơn Tự), bên sách Nho có đăng nhưng trong Phật thư thì không.

Có thể thấy đây hoàn toàn không phải là sự thật. Nhưng ở Kim Sơn hiện nay còn có động Pháp Hải, trong tiểu thuyết còn tả rắn kéo đến Lôi Phong Tháp và Phi Lai Phong… toàn là ăn nói vớ vẩn. Lại còn dựng truyền thuyết Thiền sư Cao Phong có một nửa đồ đệ: Đoạn Nhai là một, Trung Phong là nửa. Truyện này trong kinh sách Phật không có ghi.

Quý vị hãy tìm đọc những bộ kinh sách của cổ nhân như “Kinh Lăng Nghiêm, Thích Thị Khể Cổ Lược”, Thiền Lâm Bảo Huấn, Hoằng Minh Tập, Phụ Giáo Biên… và hãy xem cho nhiều vào, vì đây chính là những bộ sách rất hữu ích, giúp người mở mang tâm trí.

  1. GIÁO HÓA PHẢI LẤY MÌNH LÀM GƯƠNG

Thứ ba 26 tháng 3 nhuần Ất Mùi (1955)

Phàm Kinh điển giáo pháp Phật thuyết giảng, không lìa bốn chữ “Tín, Giải, Hạnh, Chứng”. Kinh nói: “Tín là là mẹ các công đức”.

Tín làí Tín tâm. Trên Kinh Hoa Nghiêm các vị Bồ-tát từ Sơ tín đến Thập tín đều phát xuất từ lòng tin. Tin cái gì? – Tin diệu pháp Như Lai nửa câu một câu đều là “Chỉ thẳng tâm người kiến tánh thành Phật” – Lời Thế Tôn vô cùng chuẩn xác, cực kỳ chân thật, (chân vạn xác), không thay đổi. Người tu chỉ cần theo tâm này mà dụng công, chẳng nên hướng ngoại tìm cầu, tin tự tâm mình là Phật, tin lời Ngài nói, không dối, không đổi.

Giải là: Cử chỉ động niệm, nhị đế viên dung, tự mình hiểu rằng thuyết pháp biến hóa, thảy đều từ tâm mình lưu xuất, phóng đại quang minh, chiếu kiến tất cả… Đây chính là Giải. Mặc dù đã hiểu minh bạch nhưng không thực hành thì không thành công, cho nên phải khẩu tụng tâm duy. Tâm khẩu tương ưng, không trái nhau. Không nên miệng nói như gấm như hoa, mà bụng chứa đầy tham, sân, si, kiêu mạn. Như vậy là nói suông, khoe rỗng – tuyệt chẳng được ích lợi gì.

Tâm duy là gì? Phàm đã thốt lời thì phải y theo Thánh giáo, kiểm soát từng hành động cử chỉ của mình. Cân nhắc từng cử chỉ, thăm dò từng động niệm, chẳng sai đạo lý, dù là tí ti.

Hễ nói được là hành được, vậy mới là ngôn hạnh không khiếm khuyết. Nếu nói được hoa trời rơi đầy, mà hành động sai quấy, thì thà rằng đừng nói. Hành có nội hành, ngoại hành, nghĩa là trong, ngoài phải tương ưng. Trong thì đoạn hai chấp ngã pháp, ngoài phải hành hết tất cả hạnh thiện, hành tỉ mỉ.

Chứng là: Thật chứng, chân thường. Có Tín, có Giải mà không có Hành thì không thể Chứng, đây gọi là phát cuồng. Vì người nói pháp trên đời, nhiều như lông trâu, nhưng khi hành, thì chẳng biết thế nào là Thiền sư Pháp sư.

Ai cũng có một vài bản chú giải như Tâm Kinh, Kim Cang Kinh, Bát Thức Quy Củ Tụng… cho đến Kinh Lăng Nghiêm. Trong đây còn có một số người chỉ cần được hỉnh mũi, (yếu tỵ khổng) (hãnh diện), nếu chú giải kinh lu bù, mà hành trì trái ngược giống như kẻ tục nhân, thì chỉ là nói ăn mà bụng chẳng no.

Động tác, hành vi có phân nội hành và ngoại hành. Nghĩa là bên trong phải định huệ viên dung, bên ngoài thì tứ oai nghi hằng tuân thủ; nghiêm trì giới pháp, chẳng phạm mảy may, được vậy đối với bản thân mới có ích lợi. Hơn nữa phải lấy bản thân mình làm gương, mới có thể giáo hoá người. Giáo hóa người không phải ở chỗ nói nhiều, mà quan trọng là phải hành cho tốt, vậy mới có thể cảm hóa nhân tâm.

Các vị hành cho tốt, chính là giáo hóa! Không nên để người thấy mình có hành vi bất hảo mà sinh thối tâm, tiếc hận. Như vậy sẽ chiêu đọa vô ích. Một khi hành không đúng pháp, là uổng phí công phu.

Chúng ta tu muốn thiên nhân đến cúng dường, thiên nhân chẳng thèm để ý tới, bởi vì chúng ta không có hành trì. Nếu là người hành trì chân chính, thì dù ở nơi đầu đường phố chợ, tửu quán dâm phòng cũng đều là chỗ để dụng công. Nếu tình chẳng gá vật, vật đâu ngăn ngại người? Như gương sáng chiếu soi vạn tượng rõ ràng, chẳng giữ chẳng xua thì cùng đạo tương ưng. Chấp tâm (trước tâm) mê cảnh, thấy pháp ngoài tâm là không đúng. Bản thân tôi tự xét cũng xấu hổ, hành chẳng đến mà cứ nói ra rả thì nào có ích chi. Kinh, Luận Phật, Tổ ông chú, tôi chú.., xúm nhau chú giải đến không còn chú… được nữa. Cho nên thuyết pháp lợi người, phải lấy mình làm gương trước.

-Lấy mình làm gương ư? – Điều này chính tôi cũng cảm thấy xấu hổ.

  1. NÓI ĐƯỢC LÀM ĐƯỢC

Thứ Hai, mồng 9 tháng 4 Ất Mùi (1955)

Hạnh giải tương ưng chính là nói được hành được. Cổ nhân có nói đến hành chẳng đến và cũng có hành đến nói không đến. Hạnh giải viên dung vô ngại chính là nói làm đều đạt, tương ưng. Hiện nay chúng ta nói nhiều, mà hành ít, nên khó liễu. Quy Sơn Cảnh Sách nói: “Nếu có người bậc Trung, lưu tâm nơi giáo pháp, cũng là tốt“. Chúng ta không những hành chẳng đến mà ngay cả nói cũng nói chẳng đến. Cổ nhân nhất cử nhất động, bên trong lẫn bên ngoài đều niệm niệm không lỗi, tâm khẩu tương ưng. Còn chúng ta tập khí thói xấu nhiều, điều phục cũng điều chẳng nổi. Bị gió cảnh thổi mít mù, không có thọ dụng chân thật.

Hễ muốn thuyết giáo thì rút ra từ những gì được nghe giảng hoặc trích dẫn từ Kinh luận Ngữ lục, Điển chương… Song càng lớn tuổi trí nhớ càng lu mờ, giảng trước quên sau, giảng sau quên trước. Giảng cũng giảng chẳng tới, sống đã hạnh giải chẳng tương ưng, một đời trôi suông thì rất khổ.

– Vì khi hơi thở ra không vào, chẳng biết sẽ đi về đâu? – Không thể làm chủ khi sinh tử đến, hằng ngày bị gió cảnh thổi mà chẳng thể buông – Đã làm chủ mình không nổi, thì có nói gì cũng vô ích! -Tôi nay thuyết cho các ông vẫn là Bồ-tát bùn khuyên Bồ-tát đất! Nhưng nếu các ông chịu nghe khuyên thì sẽ được lợi ích. Chỉ cần chớ để cảnh chuyển, giống như chăn trâu phải nắm chắc sợi dây, hễ trâu không nghe lời thì quất cho nó mấy hèo, nếu thường hàng phục tâm giỏi, lâu ngày công phu sâu, sẽ có tin tức tới nhà.

15

NĂM BÍNH THÂN (1956) 117 TUỔI

Mùa xuân, Sư cho xây Đại Điện, Điện Thiền Vương, Lầu Hư Hoài, Lầu Vân Hải, Lầu Chuông Trống cùng các Điện, Đường, Phòng xá… lần lượt hoàn thành.

Công trình xây dựng lại Vân Cư, mô hình kiến trúc đươc làm theo các đồ án Cổ Sơn, Nam Hoa, Vân Thê… song vẫn uyển chuyển thay đổi tùy theo thế đất.

Phía trước chùa là hồ Minh Nguyệt, tròn như vầng trăng, rộng khoảng trăm mẫu. Bờ đê làm bằng đá, Sư xây Tam Môn Quan (cổng tam môn) ở phía Bắc hồ, đi vào là gặp Điện Thiên Vương, tiến sâu nữa thì thấy Đại Hùng Bảo Điện, phía sau là Pháp Đường và Tàng Kinh Lâu.

Đi qua khu Lâm Viên thì thấy ngay ngọn Long Châu, khí mạch rất vững. Tại đây, các ngôi Điện, Đường đã xây xong hết.

Bao quanh chùa là vách đá, có tường thành La Hán nhìn rất trang nghiêm, vẻ tráng lệ tương đương với chùa Nam Hoa.

Tô Đông Pha từng nói: “Phong cảnh Vân Cư là tuyệt mỹ nhất thế gian”. Đây vốn là chỗ cư trú của các bậc Đại sĩ. Sáng sớm, mỗi khi mặt trời lên, ánh kim quang toả sáng, chiếu lấp lánh trên các ngôi Điện vũ. Đêm về, hồ dịu dàng đón trăng, phả sắc vàng huyền ảo. Quanh chùa là ba mặt ruộng bằng phẳng, bốn phía núi liền nhau, chóp đỉnh cao vút, chân uốn quanh co, nhìn giống hệt như những cánh sen úp chồng lên nhau”.

Sư lên núi vào năm Quý Tỵ, phải mất ba năm kiến thiết trùng tu, chỉnh sửa… lâu đài cõi Phật mới tạm hiện rõ nét. Cảnh cũ dần dần được phục hưng, nhìn nguy nga, tôn nghiêm không kém thời Đường, Tống. Đây là nhờ đạo đức của Sư cảm nên, không riêng gì cõi người mà còn cảm đến cả thiên long… nhờ duyên lành hội đủ nên mới đạt được thành quả tuyệt như vậy. Có thể nói điều này thật khó nghĩ lường.

Từ đầu xuân đến mùa hạ năm nay, số chúng ở đã tăng lên đến hai ngàn người. Trong số họ, hội đủ các bậc kỳ tài có khả năng chuyên môn từ kiến trúc đến nông lâm v.v… Cho nên tất cả công trình, tư xây dựng cho đến trồng trọt đều thu được kết quả rất tốt.

Những năm gần đây, Sư xây dựng Tổ đình, không lập sổ lạc quyên, không đi quyên tởi gì mà duyên lại tự đến, thật không thể nghĩ bàn. Lần trùng hưng Vân Cư này, thiện tín mười phương đồng lòng tùy hỷ, nhiệt tình ủng hộ, chỉ đơn cử một hai việc mà thôi.

-Đệ tử của Sư là Khoan Huệ, nghe tin Sư sắp xây Đại Tháp, thì bên Hương Cảng ông ta liền mở Pháp Hội Dược Sư thu được một vạn kim.

Cư sĩ Nguyễn Chiêm Lệ Ngô, là một thương gia Hoa Kiều tại Bắc Mỹ luôn vọng hướng về Sư, dù chưa một lần gặp mặt, bà vẫn phát tâm hỷ cúng một vạn kim.

Còn cư sĩ Ngô Tính Tài ở Thượng Hải, mùa đông năm nay, từ Hương Cảng qua Bắc Kinh, lên núi lễ Phật. Do thấy con đường từ bến đò Trương Công lên tới núi (dài hơn 20 dặm) gập ghềnh khó đi nên ông phát thiện tâm, nguyện bỏ ra mười vạn tiền để tu bổ đường, hiện còn đang sửa.

Nhờ những đóng góp hào phóng này mà việc được tiến hành mau chóng. Sư xây chùa lớn nhỏ, có đến mấy chục nơi. Lúc Ngài lên núi, chỉ mang một cây gậy. Khi việc hoàn thành, Sư cũng chỉ chống một chiếc gậy xuống núi. Giờ Sư trùng hưng Vân Cư, nếu có thần trợ giúp thì chừng hai, ba năm sau là muôn thiện đồng tụ hội, đủ duyên thì tứ sự cúng dường cung ứng, chỉ cầu là Sư ở được yên.

Tháng 9 mùa thu, Sư khai thông hồ Minh Nguyệt và nạo vét dòng Thanh Khê, đào được một hòn đá lớn, chữ đã phai.

Người biết chuyện giải thích là: “Khi Thiền sư Phật Ấn trụ trì ở đây, Tô Đông Pha thường vào núi thăm, hai người đã cùng ngồi bên suối đàm đạo, nơi hòn đá này.

Về sau, khi xây cầu kỷ niệm, viên đá được đặt tên là Đàm Tâm Thạch, còn cây cầu có tên là Phật Ấn. Bây giờ, khi Sư vét sông sửa cầu, đã đem hòn đá đó đặt ở Đình Cầu để lưu giữ tích xưa và Ngài đã làm bài thơ rằng:

Pha lão sùng Phật túc nguyện thâm Tầm sơn vấn thủy khứ lai linh Thanh Khê Kiều bạn Đàm tâm thạch Đàm đáo vô tâm thạch hữu tâm Tích nhật Kim Sơn lưu ngọc đái Độn cơ ngẫu trệ cổ duyên tình Vân lai quyến xuất Đàm Tâm thạch Vị kiến khê kiều ký tính danh.

Đông Pha mộ Phật nguyện cao thâm Vấn sông hỏi núi biết bao lần Qua cầu ngồi tựa Đàm Tâm Thạch Đàm đến vô tâm, thạch hữu tâm. Xưa bị Kim Sơn thâu Ngọc đái Độn cơ thế kẹt, túc duyên thành Vân nay nhặt được Đàm Tâm Thạch Bắt cầu qua suối để ghi danh.

Mùa đông năm này, tứ chúng hơn 200 người, khai khẩn trên 180 mẫu ruộng nước, ruộng khô hơn 70 mẫu, số lúa thu hoạch được hơn 45 ngàn cân, các lương thực linh tinh khác thu hơn 26 ngàn cân. Những sản vật như đồ dùng bằng tre, lá trà, ngân hạnh, măng … đều có thu hoạch cao.

Về sau, vẫn tích cực khai hoang, gầy rừng để có thể nuôi được 500 tăng chúng.

Ngày mồng 7 tháng chạp, Sư mở hai kỳ Thiền thất. Chùa Nam Hoa ở Khúc Giang, chùa Lục Dung ở Quảng Châu, chùa Định Quang ở Trường Đính, chùa Pháp Luân ở Ninh Hóa… đều thỉnh Sư truyền giới.

ĐINH DẬU 1957 – 118 TUỔI

Đầu xuân này, Sư nhận lời thỉnh cầu của cư sĩ Ngô Tính Tài, cho sửa con đường, (đã được khởi công hồi cuối năm). Con đường dài 9000m, rộng 6m bắt đầu từ bến đò Trương Công lượn quanh chân núi lên đến đỉnh.

Trên núi có nhiều giòng suối lẫn thác, nên Sư cho bắc thêm các cây cầu: Long Vương Kiều, Thừa Vân Kiều, Vân Ầm Kiều, Quy Thuỷ Trạm v.v…Đến giữa thu thì công trình hoàn tất. Sư cho khắc bảng ghi chữ lớn hầu lưu lại tích xưa. Để bảo tồn cổ tích. Dọc theo con đường Đại Thạch đều có dựng các bảng như “Triệu Châu Quan”, “Phi Hồng Kiều”…có các bài văn và thi kệ ghi, thuật lại các việc.

Cư sĩ Ngô phát tâm tu sửa con đường Tuấn Hồ, khi công trình làm xong, Sư đề bài kệ:

Tầm đáo Vân Cư san ngoại san Uyển như tưụ lĩnh tại trần ai Cao san bình địa tiêu diêu ngoại Kiệt khách sùng lâu phủ ngưỡng gian Khứ trụ tùy duyên vô quái ngại An bần lạc đạo lão tăng nhàn Dục hướng kỳ trung vấn đoan đích Tiền tam tam dữ hậu tam tamTạm dịch:

Thăm non cao ngoài Vân Cư Nhẹ nhàng lên đỉnh Chân Như1 giữa trần Núi cao hay là đất bằng Hành tung, kiệt khách vẫn hằng kính yêu Tùy dưyên đi ở phiêu diêu Làm Tăng tự tại muôn điều thảnh thơi Ai mò tới hỏi lắm lời -“Trước ba ba đấy, sau thời ba ba”!

Tứ hải danh hiền dự thử gian Thiên thượng Vân Cư sơn thượng sơn Thuỷ nguyệt đạo tràng kim cổ mộng Phật ma cảnh giới loạn ly khan Thiên tầm nhai ngạn kinh quá dị Ngũ trược Ta-bà giải thoát nan Liệu đáo tàn niên bách tuế ngoại Thảo hài độc đạp triệu châu quan

Hiền danh tứ hải ngự cả đây Vân Cư trên núi, mây trời bay Đạo tràng trăng nước xưa nay mộng Nhìn cảnh phật ma loạn ly đầy Tìm ngàn bờ bến, qua đó dễ Ngủ trược Tơ-bà thoát khó khăn Tính lúc cuối đời ngoài trăm tuổi Mình ta đạp cửa Triệu Châu này!

Tháng sáu năm Quý Tị (1953), Cơ Quan Chính Phủ Nông Lâm đương địa đã từng phê chuẩn cho phép Tăng chúng chùa Vân Cư được quyền khai khẩn vùng hoang sơn này làm Nông Trường Tăng Già. Bây giờ, nhìn thấy chùa đã biến chốn này thành vùng đất cực kỳ mỹ quan, ruộng vườn điền trang… đường hoàng tăm tắp. Họ bèn trở mặt, phủ nhận hết những gì đã từng phê chuẩn và ra quyết đinh tich thu toàn bộ vùng đất chùa đã làm. Họ biệt phái hơn mười nhân viên đến tiếp quản và lên kế hoạch biến nơi này thành khu vui chơi giải trí. Ban Chức sự Tăng-già vội xuất trình giấy phép Quyền canh tác do chính phủ đã cấp ra, xin chính quyền địa phương cho chùa được quản lý vùng đất mình khai khẩn, nhưng họ chẳng thèm đếm xỉa tới. Sau đó họ còn bắt Sư đem nhốt riêng, xuống lịnh cưỡng ép, buộc Sư phải dời đi nơi khác.

Sư không biết làm sao, bất đắc dĩ phải đem tình hình xảy ra trình với chính phủ Bắc Kinh. Lập tức trên Bắc Kinh truyền lệnh xuống, buộc chính quyền địa phương nội trong ngày phải cấp tốc hoàn trả lại những gì đã tịch thu của chùa. Chính quyền địa phương ngoài mặt tuy chẳng dám cãi lời nhưng trong lòng rất căm hận, cho là Sư dựa thế cấp trên, chèn ép chính quyền sở tại. Còn có thêm những gian tăng trước đây từng ôm hận vì bị Sư chấn chỉnh sơn môn, cũng thừa cơ phản công…

Thôi thì trong, ngoài xúm nhau giáng đòn, gây hấn, tranh giành, thoá mạ thậm tệ… tạo ra thảm cảnh khó mà kể xiết. Họa này vẫn chưa hết, mấy tháng sau còn xảy ra những việc khác:

  1. Có người khuyên Sư nên hiến tặng vùng đất đã khai khẩn canh tác.
  2. Chính quyền kêu gọi toàn dân hưởng ứng đóng góp cho phong trào Luyện thép. Phần chùa cống hiến là sáu vạn cân than. Vì vậy mà chùa đã chặt hơn 38 vạn cân cây cối ở núi và nộp thêm chuông đúc, đồng đúc, gạch đúc… trong chùa, tính ra có hơn mấy vạn cân.
  3. Năm này Sư bệnh rất nhiều. Các đệ tử lo thang thuốc cho Sư, Ngài cũng hỗ trợ, đóng góp năm vạn đồng cho kỹ thuật luyện thép.

Ngoài ra, còn nhiều việc không thể thuật hết, cuối cùng chùa phải đem toàn bộ đất đai đã khẩn hoang, hiến cho chính quyền địa phương xử lý. Trong tháng này Sư cùng trụ trì bổn tự là Sư Hải Đăng khai khóa giảng kinh Pháp Hoa, chọn hơn 30 Tỳ kheo trẻ, lập ra Viện Nghiên Cứu Phật Học để đào tạo Tăng tài.

NĂM MẬU TUẤT 1958 – 119 TUỔI

Mùa xuân, phong trào tảo trừ ở Thạch Phái nổi lên rất mạnh. Các chùa viện cũng bị ảnh hưởng lây. Các đoàn thể Phật giáo bị bắt buộc phải học theo nếp mới ở Hán Khẩu. Trụ trì và Ban Chức Sự các tự viện đều phải đến dự. Sư do già bệnh nên từ chối không đi. Riêng các vị: Trụ trì Bổn Hoán (chùa Nam Hoa), Trụ trì Phật Nguyên (chùa Vân Môn), Sư Tri khách Truyền Sĩ, Kiến Tánh, Ấn Khai v.v… đều phải đến Thạch Phái học tập. Họ bị chỉ định, bị ép buộc phải lên tiếng tố tội Sư và tham dự cuộc “Tranh đấu bài trừ Hoà thượng Hư Vân“. Tất nhiên chẳng vị nào đồng ý. Thế là chuyện không hay xảy ra! – Một số gian tăng bịa ra mười đại tội để vu khống, gán cho Hòa thượng Hư Vân là: Tham ô, phản động, kết bè phái, tư tưởng lệch lạc, lạm truyền giới pháp v.v… Toàn là những điều vô lý. Chưa hết, họ còn đơm đặt dệt thêm những điều thương thiên hại lý nhằm bôi nhọ thanh danh Ngài. Thật đáng tiếc khi những lời bôi nhọ này lại phát xuất từ cửa miệng của những người mặc áo Tăng (nhưng lòng đầy tâm ác, giả tu).

Lại nữa, từ lục Sư đến Vân Cư, Ngài được chính phủ Bắc Kinh tặng riêng cho mỗi tháng một trăm đồng – gọi là Phí hỗ trợ Kỳ Lão. Sư đã nhiều lần từ chối không nhận, nhưng sau đó Ngài chịu nhận và lấy tiền này cúng chúng.

Khi nhóm họp, đám gian tăng vin vào chuyện này, lên tiếng chỉ trích ầm ỹ, buộc tội Sư. Họ mạt sát Ngài là: Tham ô, hám lợi,., rồi còn đặt thơ dè bĩu, đại loại như: “Lung khề hữu thực thang oa, dã hạc vô lương thiên địa khoan” (Nhốt gà để xực cho gần hạc rừng chẳng nhắm, vì xa quá trời…) họ còn rêu rao là Sư láo khoét, dối nói mình cao tuổi. Họ còn viết báo mỉa mai, hủy báng Sư. Sư xem báo xong bảo đệ tử: “Ta sinh trưởng xuất gia ở tại tỉnh Mân, hiện Trụ trì Thịnh Huệ và Pháp sư Viên Anh tại Cổ Sơn đều rõ việc này. Năm ta xuất gia thọ giới hoặc ra ngoài tham vấn hay về Cổ Sơn trụ trì đều có chứng cứ xác thực cả”….

Tình hình rất căng, Sư bị đám gian tăng và những người nắm quyền xấu bụng gọi Ngài là “Lão già ngoan cố, là hạng sâu mọt đục khoét…và hô hào kêu gọi mọi người nên lật đổ Ngài, cần phải đem Ngài đi tẩy não, cải tạo… Lúc này Tăng chúng toàn quốc thảy đều lo lắng bất an. Chùa Nam Hoa, Vân Môn đồng lên tiếng biện bạch, cải chính, nhưng Sư không cho. Các đệ tử trụ cột lâu năm từng theo phù trợ Sư đắc lực cũng bị họ phân tán, biệt phái đi các nơi khác hết.

Tình hình rùm beng này bay tới Bắc Kinh. Chính quyền địa phương liền nhận được tin Bắc Kinh báo xuống là sẽ cho mở cuộc họp tại Hán Khẩu. Chính quyền địa phương thừa biết Sư là bậc đạo cao đức trọng, rất được nhiều người quy ngưỡng nên không dám coi thường, họ gấp rút đem tài liệu ghi tội trạng Sư, trình lên các vị chức sắc tối cao yêu cầu xử lý… Nhưng cấp trên của họ vừa xem xong đã bật cười, phán: ” Bỏ qua hết”… thế là tình hình chuyển nguy thành an thật bất ngờ.

Ngày 15 tháng 8 Xứ trưởng địa phương Trương Kiến Dân dẫn vài cán bộ công an tới biệt thất Sư ở, ra lệnh đào đất, khoét vách khám xét, lục soát lung tung… nhưng họ chẳng thu hoạch được gì. Sau đó có một hòm bưu phẩm (trong đây có đính kèm đủ các giấy tờ quan trọng chứng minh về nhân thân Sư) do chùa Vân Môn gởi tới, được chuyển từ Trung ương xuống, nhưng tất cả văn kiện, sổ sách này… đều bị bọn họ lấy đi hết. Thỉnh cầu mấy lần, họ cũng chẳng trả lại.

Ngày 16 tháng 9, Sư họp chúng tại Biểu Đường dạy:

“Dạo này thân thể tôi không được khỏe, ngày đêm đều bất an. Mấy ngày nay Trương Xứ trưởng cùng các vị đồng chí lên núi, Xứ trưởng bảo:

-Chính quyền Bắc Kinh báo xuống, dặn ta đến đây truyền đạt ý này: Chính phủ mời Hòa thượng lên dự hội tại Bắc Kinh…

Tôi vì già bệnh nên từ chối.

Tôi tay không đến, tay không đi, dốc sức làm mọi việc vì đại chúng. Chịu nhiều lao tâm khổ trí, nếm biết bao oan khuất, chịu biết bao đoạn trường gian khổ, song có người chẳng cho đấy là ân, ngược lại còn ôm lòng thù oán. Tất cả việc này, đâu không phải là chiêu cảm từ nhân gieo của quá khứ? Tôi mong mọi người hãy gắng tu, thực hành đúng theo pháp Phật, đừng để cảnh xoay chuyển là được”…

(Mấy tháng gần đây, Sư lắm nỗi ưu tư, lo nhiều và bệnh nhiều, ngày càng trầm trọng. Năm ngoái Sư lễ Phật chẳng cần người dìu, giờ thì phải nhờ thị giả giúp).

ĐÀNH NHỜ NGƯỜI MAI SAU

Ngày nọ, Sư gọi hai thị giả đến, bảo:

-Thầy hồi mới xuất gia, thường tự xét căn khí mình và theo đó nhập môn hành đạo. Thầy thích tu khổ hạnh, nhưng bản tính ưa Thiền nên tập hành Thiền. Thầy nghĩ Đại thừa từ Ấn Độ truyền sang, tuy lấy ngài Đạt-ma làm sơ tổ, song lại thấy ánh quang đại cũng ở Đông Sơn. Nếu phăng tận đầu nguồn, thì chính là tại chùa Quang Hiếu2 ở Quảng Châu. Đời Đông Tấn, Tôn giả Da-xá, nước Kế Tân, cỡi thuyền đến đây, trụ lại và xây nên ngôi Phạm Vũ này rồi đặt tên là Vương Viên Tự. Đến khi cầu-na-bạt-đà mang theo bốn quyển Lăng Già dừng lại ở Kha Lâm, lập giới đàn, sấm ký rằng: “Ngày sau sẽ có nhục thân Đại sĩ thọ giới tại đây“… Đến đầu đời Lương Thiên Giám, Ngài Trí Dược Tam Tạng mang theo một nhánh Bồ-đề, trồng bên cạnh đàn tràng này và ghi: “170 năm sau sẽ có bậc đại trí xuất gia nơi đây”…

Sau này, khi Lục Tổ thọ y bát của ngài Hoàng Mai, đến cạo tóc dưới cây bồ-đề này, quả đúng y như lời sấm ký. Rồi Ngài đến Tào Khê, một hoa nở năm cánh, Thiền tông bắt đầu thịnh từ đây. Nhưng phăng tận đầu nguồn thì Giới Đàn Kha Lâm được xem như là căn cứ bản địa – Kha Lâm – tức là chùa Quang Hiếu đất Quảng hiện nay.

Trước năm Thanh mạt, chùa này bị trường học chiếm dụng một phần, chính quyền địa phương chiếm dụng một phần, đoàn thể công tư chiếm một phần nữa… Rốt cuộc chỉ còn lại ngôi Đại Hùng Bảo Điện, Tháp Lục Tổ và cây bồ-đề cao ngất (che lấp mặt trời) sừng sửng ở trước Điện mà thôi.

Là Thiền nhân, uống nước phải nhớ nguồn, nhìn ngôi danh lam thắng cảnh lịch sử, ngôi Tổ đình đệ nhất của Thiền tông điêu tàn hoang lạnh như thế, thầy rất muốn trùng tu. Dù thầy đã cố hết sức nhưng vẫn chưa thể tròn nguyện.

Vào năm Dân Quốc 19 – Canh Ngọ – Hồi ấy thầy đang trụ trì Cổ Sơn, từng có phát nguyện là sẽ trùng tu chùa Quang Hiếu nên trước đã đem tiền dành dụm khoảng hai vạn đồng cất giấu nơi đó. Khi đạo hữu họ Lâm vào núi thăm, nghe thầy kể sơ tâm nguyện mình, Lâm cư sĩ rất tán thán, ủng hộ. Ông hoan hỉ bảo:

-Nên trùng tu Quang Hiếu. Nhưng trước tiên phải lo cho đủ tiền đã, con nguyện hỗ trợ Ngài hoàn thành tâm nguyện này. Chỉ cần tích góp tiền bạc cho đủ số, khoan tính năm tháng xa gần. Con xin dốc hết tâm sức ủng hộ,,…

Thầy vui vì được quá mong ước. Hôm sau, quả nhiên Lâm cư sĩ mang tờ ngân phiếu năm vạn đến (Một số tiền cực lớn thời ấy), thầy đem tiền của dành dụm được cất giấu hết nơi cổ Sơn, thầm tính là, đợi tiền chuẩn bị đủ số thì sẽ mang về Nam trùng hưng chùa Quang Hiếu, đạo tràng của Tổ Sư.

Nào biết đạo tràng hưng, suy đều có thời tiết nhân duyên? – Không thể đem sức người điều khiển, uốn nắn – Đến năm Dân Quốc 23 tháng 4 Giáp Tuất (1934), một đêm mà ba lần thầy mộng thấy Lục Tổ thúc giục mình trở về. Trùng hợp là tướng quân Lý Hán Hồn ở Việt Bắc cũng phái người đến thỉnh thầy trùng hưng chùa Nam Hoa. Thế là mùa đông năm ấy thầy đến xứ Quảng. Trong lúc trùng hưng Tào Khê, có thể nói là thời cơ chín muồi, nhân duyên hội đủ. Rồi tiếp đến xây dựng Vân Môn, phải mất chín năm mới bắt đầu hoàn thành.

Sau đó biến sự xảy ra, việc trùng hưng xây cất hai ngôi Đại danh lam liên tục, sở phí tốn kém rất nhiều. Thầy phải giật gấu vá vai, có được chỗ này thì thiếu chỗ nọ, thôi thì đủ điều gian khổ. nhưng thầy tuyệt chẳng dám động đến số tiền dành riêng cho chùa Quang Hiếu đang cất giấu ở Cổ Sơn, bởi vì chuyện dùng tiền đàn na – cho dù có đổi tiền mua gạch sang mua ngói – Phật cũng không cho phép.

Lúc công trình Vân Môn xây xong thì Thế giới chiến thứ hai chấm dứt. Cư sĩ Hồ Nghị Sinh v.v… có bàn đến việc trùng hưng Quang Hiếu. Thầy yêu cầu trước phải thu hồi lại số đất bị chiếm, đồng thời bí mật về Cổ Sơn, đem số tiền vàng cất dấu, chuyển đến Vân Môn, đổi ra bạc nén hết, rồi đem chôn dưới gốc cây, mục đích là chuẩn bị cho công cuộc trùng tu chùa Quang Hiếu. Nhưng chưa được ba năm, thời thế đã đổi thay. Lúc Vân Môn xảy ra biến sự, thầy bị đánh gần chết mà chẳng chịu khai chỗ cất giấu vàng. Bởi thầy đã gác chuyện sống chết qua một bên, lòng chẳng dám có chút mê lầm nhân quả – dù mảy may – Đến năm ngoái, nghe đồn Việt Bắc đang có đường lối muốn tịch thu Quang Hiếu làm thị trường, Ngô cư sĩ đã hai lần lên núi, thầy căn dặn ông cùng chính quyền Việt, hãy ráng bảo tồn danh tích Quang Hiếu.

Nay thầy đã trải qua hết gian khổ, ngày một già yếu, bệnh hoạn càng nhiều. Duyên trụ thế sắp mãn, tâm nguyện ban đầu khó đạt, thôi thì đành cậy nhờ vào mai hậu. Do số vàng cất giấu vì thời thế không cho phép giữ. Mà gởi… cũng không người dám đảm đương. Thầy nghĩ, chỉ còn nước trình với chính quyền đương đạo, đại diện bảo quản cho. Thầy giải bày tâm nguyện ban sơ và nói rõ lai lịch tiền của cất dấu. Ngày trước thầy đã cùng đồng chí Thạch trên huyện phủ thỏa hiệp, nay hai con hãy đến đó, đào lấy số bảo tàng kia lên, chở về bổn sơn. Bây giờ thầy đưa cho các con tấm bản đồ, các con hãy hợp với đồng chí Thạch mang đủ công văn theo, đến Vân Môn hành sự.

(Các đệ tử đi, mấy ngày sau, đem về một cái rương, bên trong có hai hủ sành, tính tổng cộng cả thảy có 28 cân hoàng kim, ba ngàn nén bạc trắng).

Sư nói:

-Nhờ đồng chí Thạch cùng các thị giả chuyển giao cho chính phủ giữ dùm, làm sáng tỏ bổn nguyện của tôi cùng Lâm cư sĩ. Còn việc trùng hưng chùa Quang Hiếu, thôi thì đành trông cậy vào các vị trong mai hậu vậy.

TÂM SỰ CÙNG CHÚNG

Ngày 19 tháng 10 tại Phương Trượng, Sư khai thị chúng:

Cổ nhân nói: “Chớ hướng danh trường lập, sơn trung mộng diệc vi“ (Chớ chen vào chốn danh trường, trên non dù mộng cũng an, nhẹ nhàng). Dây danh khoá lợi trên đời lớp lớp buộc trói, bỏ lớp này còn lớp khác. Thêm tập khí xấu bó buộc khiến nhúc nhích không được. Người khéo giác chiếu chẳng chạy theo nó, chẳng giác chiếu thì bị nó kéo lôi, nên làm người có rất nhiều khó khăn. Cổ đức nói: “Tỳ-kheo trụ núi Phật hoan hỉ, trụ tại phố xá náo nhiệt Phật ưu tư. Tỳ-kheo nên trụ A lan nhã”. Đại Nhật Kinh Sớ ghi: ”A-lan-nhã có tên là Ý lạc xứ, gọi là chốn an vui không tịch của hành giả”. Hoặc ở một mình không bạn bè, hoặc hai-ba người, hoặc ở dưới cội cây, nơi đất trống đều được“. Tỳ-kheo thường cư A-lan-nhã, đây là một trong 12 hạnh đầu đà. Còn ở nơi phố thị phồn hoa, ngựa xe dập dìu thường bị hai chữ danh lợi vấn vít trói buộc, trọn ngày lắm chuyện phiền rầy chẳng được yên. Cho nên, xưa nay tổ sư ở núi rất nhiều.

Đức Thế Tôn xuất gia tu đạo, hành khổ hạnh 6 năm nơi Tuyết Sơn. Chẳng phải nói tu tại nhà hay tại thành thị là không tương đương. Thật ra chẳng cần phải đến Tuyết Sơn. Vì tuyết là lạnh. Vào mùa tuyết rơi, sơn hà đại địa đều hoá thành thế giới bạc, muôn vật thu ẩn, đây là lúc vạn loài, mọi sắc thái đều phong bế – Đây cũng chính là cảnh giới của đạo nhân!

Khuyên các ông trong 12 thời, hãy như đất lạnh băng băng, vạn niệm nguội lạnh như tro tàn, chẳng để cảnh chuyển, được như vậy thì gọi là đến Tuyết Sơn! – Chẳng ở đời gọi là xuất gia, chẳng theo vọng tưởng gọi là cạo tóc Phật tu hành phải đi đến “Tuyết son” là vậy đó, phàm phu chúng ta, sao có thể làm ngược lại, dám sống qua ngày nơi phố ồn? cổ đức một khi trụ tại thâm sơn – nghĩa là bất nhiễm thế duyên – Mặc Hoàng đế thỉnh mời cũng chẳng xuống núi.

Nhiều người cho việc được Hoàng đế chiếu cố là trọng đại. Tôi bình sinh rất khổ, cả đời đầy tai họa, lắm bệnh nhiều ma. Mấy mươi năm đi Nam về Bắc ăn cơm chùa, đối lừa cửa không, trong lòng tôi rất hổ thẹn.

Do vì tôi sinh ra mà mẫu thân mất. Tôi nghĩ mình bất hiếu như thế, sợ thiên lôi đánh (Lôi tào đả), cho nên phát tâm vì mẹ làm công đức, lạy xá- lợi, triều lễ Ngũ Đài… cảm đến đức Văn Thù, tuy là tôi hướng ngoại tìm cầu song cũng có chút kết quả tốt. Năm Canh Tý, tôi về thăm Ngũ Đài lần thứ hai, gặp lúc đảng Nghị Hòa khởi nghĩa, tôi tính đến Thiểm Tây mà không đi được, quay về Bắc Kinh thì lại gặp cảnh tám nước liên quân.

Hoàng Đế phải chạy lánh nạn cùng quyến thuộc. Thái hậu nương nương nội trong ngày phải vượt năm cây số, toàn là chạy bộ không kiệu. Khi đi đến huyện Phụ Bình, mới được Sầm Xuân Tuyên đem ba ngàn quân tiếp giá, mới được ngồi kiệu ra khỏi Ngọc Môn Quan, vượt cửa Bắc, đến Ứng Môn Quan.

Tôi cùng vua đi trên đường, bình thường như không có việc gì. Hoàng đế là vốn là bậc uy quyền cao tột, thường mỗi khi xuất cung, trước khi lên đường phải nổi 9 tiếng pháo hiệu. Hễ ngài ra ngoài đường phố, thì mọi người không ai được nhìn, quán xá hai bên đều phải đóng cửa, chỉ còn lại sự im lặng không một bóng dân.

Nhưng lúc vua bôn đào chạy nạn, tình thế gấp rút, chẳng còn khởi giá rình rang, hết cả ngồi kiệu: Chạy cũng chạy được, đắng cũng ăn được. Người có lỡ gặp cũng không sao, chào hỏi cũng được. Vua không chấp vào tôn quí, gì cũng buông bỏ hết.

Đến Thiểm Tây Tây An, Sầm Xuân Tuyên là quan Tuần vũ Thiểm Tây, Lý Hồng Chương tại Bắc Kinh cùng liên quân giảng hòa xong thì thỉnh Hoàng đế về Bắc Kinh. Lúc này tại Thiểm Tây, tôi ở chùa Ngọa Long, từ sáng đến tối cùng các tể quan qua lại, tới lui, rơi vào trường danh lợi, phiền phiền muộn muộn. Tuy có công phu khả dụng đấy, nhưng hành, trụ bất an.

Ai cũng sợ nói lỡ lời là mang họa mất đầu. Tôi thấy ở trong trường danh lợi đâu có gì hay, chán phiền lụy nên tôi quyết định lui vào ẩn ở núi Chung Nam. Nhưng trốn vẫn chưa được, do vậy mà tôi mới lên tận núi Thái Bạch.

Núi cao 180 dặm, nhưng khi lên núi, ra phía sau thấy vẫn có người. Tôi không thể ở lại, bèn đi đến Vân Nam, nghĩ là đã hết chuyện nhưng chẳng bao lâu lại xảy ra nhiều việc rối ren. Do các chùa bị tịch thu tài sản nên mọi người đề cử tôi làm đại diện lên kinh thành dâng cáo trạng. Tiếp sau đó tôi đi thỉnh Đại Tạng Kinh, chuyện lôi thôi phát sinh càng nhiều. Hoàng đế nhân vì tôi có chạy nạn cùng ông, vui vẻ ban thưởng cho tôi. Tôi lại dính dáng đến danh trường.

Sau đó, đến thời kỳ thành lập Dân Quốc đầu tiên (1912), do tôi từng có qua lại với triều Thanh, nên chính phủ đương thời cho tôi là địch, phải xử lý tôi. Thế là quan Hiệp thống Lý Căn Nguyên dẫn binh lên Kê Túc tróc nã tôi.

Trên núi, Tổ Sư Ca Diếp hiển thánh, đại nạn qua đi. Sau này, khi lập Tổng Hội Phật Giáo tại Thượng Hải. Tôi bắt buộc phải tiến kinh để gặp Tôn Trung Sơn, Viên Thế Khải. Sau đó, tôi lo lập Chi Nhánh Phật giáo tại Quý Châu, Vân Nam, Tây Tạng v.v… Sau đó xảy ra đủ chuyện điên đảo, ngã tứ nghiêng tam… Cựu chính phủ đi, tân chính phủ tới. Chính phủ mới lại nghĩ là tôi ắt thuộc một đảng phái nào đó của chính phủ củ và nghi ngờ tôi, do vì trước ở Trùng Khánh tôi có qua lại với Lâm Sâm v.v… từng tổ chức Pháp Hội Tiêu Tai Cầu Thế Giới Hoà Bình. (Vào đầu xuân năm Dân quốc 32, đây là một năm có nhiều điều tốt lành cát tường như ý. Vì năm đó các nước thủ tiêu Điều ước bất bình đẳng, sau đó Nhật Bản đầu hàng, Trung Quốc thắng lợi. Lý nhậm chức, Lâm làm chủ tịch, tôi cũng đi vào danh trường).

Rồi bụi mù nổi lên, dẫn đến phát sinh trận tai họa ở Vân Môn. Tại Hồ Bắc tôi lại phải xuất đầu lộ diện, hết tiến kinh rồi ly kinh, tiếp theo đó chính phủ nhiều lần mời tôi hồi kinh…

Tôi như ở thế ngồi trên lưng hổ, chết kiểu nào cũng không biết. Giờ đây, trên tỉnh lại kêu tôi tiến kinh. Tôi không đi, họ bảo tôi cử đại biểu, hai vị Từ Tạng, Tính Phúc đi. Hôm qua họ lại gởi thư mời tới. Tôi không đi, song trong lòng có chút gút mắc, tôi nhớ đến lời cổ nhân nói: “Mạc hướng danh trường lập, sơn trung mộng diệc vi”, mới hối thầm ngày xưa mình xuất đầu lộ diện vô ích.

Một số người luôn cho rằng được qua lại cùng quý nhân là vinh hạnh, là vui sướng lắm, mà không hiểu rằng họa phúc nương nhau như bóng theo hình, ràng buộc dây dưa.

Khuyên quí vị lúc còn trẻ hãy sớm nỗ lực, giữ đạo tâm kiên cố, chẳng nhiễm thế duyên, mới có được kết quả tốt. Làm người thật không dễ. Ngày xưa thiền Sư Khuê Phong Tông Mật, cháu đời thứ bốn của Thần Hội… cùng tông Hoa Nghiêm có duyên, gặp Thanh Lương Hoa Nghiêm Sớ Sao ông hết lòng kính mộ. Lúc đó quốc gia tin Phật, Khuê Phong cũng được coi trọng. Nhân đó thường giao du qua lại cùng các sĩ phu, chơi thân với Lý Bộc.

Sau do Lý tạo phản thất bại, bèn chạy đến Khuê Phong tỵ nạn, Khuê nghĩ đến tình xưa không nỡ chối từ, nên cho lưu lại. Đại chúng không đồng ý, Lý chạy đến Phượng Tường thì bị giết. Khuê Phong cũng bị bắt, bị kết tội hai bên giao du với nhau. Khuê phong không hề run sợ đáp: – Điều này không sai! Phật giáo chủ trương oán thân bình đẳng, hễ thấy người bị nạn đều phải cứu giúp. Nay tôi đã có tội xin hãy y theo pháp mà xử.

Đại trượng phu có tinh thần vô úy như thế, thốt lời như thế, chẳng sợ hình phạt. Chính phủ cho là hiếm có, liền phóng thích Sư. Nhưng Phật giáo đồ đời sau có thành kiến với Khuê Phong, không ưa ông. Ông đến, đi phân minh, tốt đẹp. Chúng ta không có được chí khí, lòng can đảm và công phu như ông.

Cuộc đời tôi trải qua tai nạn rất nhiều, từng bị tám nước liên quân cầm súng đe dọa. Khi quan Hiệp thông Lý Căn Nguyên dẫn binh lên Kê Túc bắt tôi, bảy-tám trăm Tăng sĩ trong chùa đều bỏ đi hết, chỉ còn mình tôi là không đi. Lúc mới gặp nhóm thổ phỉ Dương Thiên Phúc, Ngô Học Hiển tôi còn bị lôi ra tra khảo đánh đập. Sau này khi Đường Kế Nghiêu đấu tranh cùng Long Vân, Tăng chúng chùa Vân Thê bị bắt, đã từng trách tôi là: Địch, bạn không phân rõ ràng.

Khi Vân Môn xảy ra ách nạn, nhiều Tăng sĩ mất tích lẫn vong thân. Có người trách tôi, song họ không hiểu nhân quả khuất lấp xa xưa phải đền trả, nào ai thoát? Chư vị Tổ sư ngày xưa cũng từng bị họa nạn rất nhiều!

Sau này, bên Dân Quốc thì trách tôi giao du với Hoàng Đế và các quan lại triều Thanh… Tôi làm sao có thể phân rõ ai là người ai là giặc? Cho dù anh xử lý tốt đến đâu, cũng chẳng được thông cảm, miễn xá.

Lần này, tôi không chịu tiến kinh thì các nơi gởi thư tới, trách tôi không thức thời, chẳng lo cho Phật pháp. Tôi nghĩ ngày xưa mình đến kinh đô là bởi việc quá rối ren khó thể rút lui nên bắt buộc phải đi. Còn bây giờ, tình hình chung nhìn đã ổn định, tín ngưỡng cũng được tự do, Đại y đã bảo tồn được rồi, giới luật quy củ Tùng lâm gì cũng được chấp thuận cho theo xưa. Có thế xem như chẳng còn gì phải làm nữa. Hiện tại tôi quá già yếu, bệnh hoài, cũng đến lúc nên ẩn thân – Tàn cuộc rồi!- Xin chư vị hãy bảo trọng.

16

NĂM KỶ HỢI (1959) 120 TUỔI

Mùa xuân, các đệ tử, các đoàn thể trong nước lẫn ngoài nuớc… thấy Sư đã 120 tuổi, họ xôn xao bàn nhau, cùng dâng thư ngỏ ý xin phép được tổ chức Đai lễ chúc thọ Sư, Sư hồi đáp, yêu cầu đình chỉ hết, nội dung đại khái như sau:

“Vân này sống chết chưa rõ, trước ý tình trọng hậu của chư vị và Ngô cư sĩ dành cho, lòng thật hổ thẹn, cảm tạ vô cùng. Trộm nghĩ: Gió nghiệp thúc bách, một dời phong ba, Vân tôi như đèn hắt hiu trước gió. Việc chưa rõ thế nào, thầm nghĩ thêm thẹn nếu lầm vì hư danh – Trăm năm trần lao, thoáng như mộng ảo, nào có gì lưu luyến? Lại nữa, mối lo sinh tử, người trí thẳng đó tu ngộ, một lòng tinh tấn hành đạo, tợ cứu lửa cháy đầu, đâu có thì giờ làm như thế tục. Lòng Vân vô cùng cảm tạ thịnh ý chư vị nhưng xin được từ chối Đại lễ chúc thọ này. Bởi vì, ngày này còn gọi là ngày mẫu nạn, bản thân tôi buồn thầm không nguôi, nền chẳng thể làm Lễ kỷ niệm hay chúc mừng gì khác, chỉ tăng thêm tội và khiến đồ đệ tốn hao vô ích”…

Tháng 3, công trình Nguyệt Hồ (Côn Minh) làm xong. Công trình Tháp Hải Hội đã xây xong một nửa, Sư dù già yếu vẫn tận lực đốc thúc, nhờ vậy mà mấy tháng sau việc được hoàn tất. Trước mùa xuân năm Bính Thân, phu nhân Chiêm Lệ Ngô (kiều nhân ở Bắc Mỹ) sau khi quy y Sư, bà phát tâm quyên góp kinh phí hỗ trợ xây Chánh điện và các ngôi Đại điện… lớn nhỏ toàn chùa. Tất cả đều làm xong. Bà cúng thêm tiền để xây tháp cúng dường xá lợi Phật, còn dự tính kế tiếp sẽ xây Thiền Viện Lưu Vân, ngụ ý chúc Sư thường trụ tại thế gian. Sư viết thư phúc đáp:

“Nam Hoa, Vân Môn… đều đã xây Tháp Hải Hội rồi, chỉ riêng Vân Cư là chưa có, xin hãy dùng công đức này để dành xây Tháp Hải Hội ở Vân Cư. Bởi vì Vân Cư nhiều đời các tu sĩ khi mất đều táng vào đất, nên việc bảo tồn rất khó khăn, chi bằng xây Tháp Hải Hội để thờ phụng hài cốt hỏa táng, như vậy sẽ ổn hơn. Đây cũng là phương tiện tốt cho tứ chúng cùng người đời sau đến viếng lễ, Còn chuyện muốn xây “Lưu Vân Thiền Viện“ hảo ý này Vân tôi rất cảm động, nhưng bình sinh tôi chưa từng xây riêng cho mình một viên ngói hay bất kỳ thứ gì, toàn là cùng đoàn thể hưởng chung, hãy cho phép tôi được từ chốì…“

Bà Chiêm xem thư xong, xin hiến năm vạn tiền Đài xây tháp, Sư bằng lòng. Nhân đó triển khai địa bàn khởi công xây. Kiến trúc giống Hạnh Hoa, ngoài ra có rất nhiều tòa Kinh Đường, dùng làm chỗ để cho các Tăng nhân cư trú, sáu thời lễ tụng. Đến đầu tháng 7 năm này thì làm xong.

Thật sự thì những ngôi cổ điện cùng các công trình kiến trúc được xây cất hơn mười năm gần đây của Sư chính là nhân duyên chót, là lần xây cất cuối cùng.

Phụ chú:

(Sư xây dựng đạo tràng Tổ sư, các tự viện lớn nhỏ trước sau hơn 80 ngôi, đều đích thân Ngài dựng lập. Thường phải mất mười năm mới xây xong một công trình).

Sư bệnh ngày càng nặng. Một hôm Hòa thượng Trụ trì, Ban Chức Sự cùng nhiều người đến thăm. Sư bảo:

Chúng ta có duyên nên cùng tụ hội nơi đây. Nhờ chư vị phát đại tâm, mấy năm nay phục hưng đạo tràng Vân Cư, gian khổ đáng cảm… Nhưng duyên đời tôi sắp hết, chẳng thể vì Tổ sư tảo trừ các việc… đành làm lụy đến chư vị. Sau khi tôi mất, nên dùng y vàng quấn quanh… Hỏa táng xong, lấy xương tro nghiền thành bột nhào với dầu đường, bột mì, nhồi thành 9 nắm, ném xuống sông để tôi thỏa tâm nguyện cúng dường kết duyên cùng thuỷ tộc. Các vị hãy hoàn thành tâm nguyện này giúp tôi, thật cảm tạ vô cùng…

Rồi Sư nói kệ:

Hà tuất nghị mệnh bất đầu thuỷ
Ngô ủy thủy tộc thân trịch giang
Ký chư thọ ngã cúng dường giả
Đồng chứng bồ đề độ chúng sinh

Tạm dịch:

Tôm thương mạng kiến chẳng xuống sông
Ta thương thủy tộc nên vào dòng
Mong các vị được ta cúng dường
Đồng chứng Bồ-đề độ chúng sinh.
hựu
Thỉnh chư pháp lữ
Thâm tư nhiệt lự
Sinh tử tuần nghiệp
Như tằm tự phược
Tham niệm bất hưu
Phiền não ích khổ
Dục trừ thử hoạn
Bố thí vi thủ
Tịnh tham tam học
Kiên trì tứ niệm
Nhất đán khoát nhiên
Phương tri lộ điện
Ngộ chứng chân không
Vạn pháp nhất thể
Vô sinh hữu sinh
Thị ba thị thủy

Hu giai ngã ai lão
Không cụ báo ân tâm
Túc trái vô thời liễu
Tri tiên nghiệp thức thâm
Quý vô thành nhất sự
Thủ chuyết tại Vân Cư
Tụng dư khiết sức cú
Thâm quý đối thế tôn
Linh Sơn hội vị tán
Hộ pháp trượng quần công
Thị Vi Thiên tái thế
Chấn Tỳ-da chân phong
Tự tha nhất thể thị
Hàm ngưỡng kim lật tôn
Trung lưu tác để trụ
Thương sinh lại phiến ngôn
Mạt pháp chúng sinh khổ
Hướng đạo hữu cơ nhân
Ngã phụ hư danh lụy
Dư ưng giác mê tân
Phật quốc thời hân mộ
Hương quang nghĩ cận xu
Cẩn lưu cơ cú kệ
Liêu dĩ biểu khu khu.

Tạm dịch:

Và
Xin các pháp lữ
Suy nghĩ thật sâu
Sinh tử vần xoay
Như tằm tự trói
Niệm tham chẳng dừng
Phiền não khổ dữ
Muốn trừ nạn này
Bố thí là nhất
Siêng tu Tam học
Tứ Niệm Xứ chuyên
Một mai mở sáng
Ắt hiểu sương điện
Chứng ngộ chân không
Vạn pháp nhất thể
Không sinh có sinh
Là sóng là nước…

Buồn thay ta tuổi cao
Không đủ báo ân tâm
Nợ xưa vô thời liễu
Hiểu cạn, nghiệp thức sâu
Thẹn chẳng thành một việc
Vụng phòng hộ Vân Cư
Nói dằng dai mấy lời
Càng hổ trước Thế Tôn
Hội Linh Sơn chưa tàn
Nhờ các ông Hộ pháp
Là Vi Thiên1 tái thế
Chấn chân phong Tỳ-da2
Thấy mình người một thể
Đồng chiêm ngưỡng Kim Tôn
Làm trụ chống trong đời
Thế nhân nương mấy lời
Mạt pháp chúng sinh khổ
Cầu đạo được bao người?
Ta mang hư danh lụy
Ráng sức giác người mê
-Cõi Phật nên luyến mộ
Nẽo sáng mau bước về
– Trân trọng lưu bài kệ
Chút ít tạm tỏ bày…

Tháng 8, ngày sinh nhật Sư đã gần kề, chư vị Trưởng lão trong nước ngoài nước cùng các môn đệ… đều lên núi chúc thọ, vấn an bệnh tình Sư. Sư cũng cảm thấy sức khoẻ có phần đỡ hơn. Các đệ tử Sư như Khoan Huệ, Khoan Hàng v.v…. từ Hương Cảng đến, Sư đàm đạo và sắp đặt các việc trọng yếu với họ. Trong “Nhật Ký Triều Sơn“ của Khoan Huệ có ghi lại như sau:

VỀ THĂM HÒA THƯỢNG HƯ VÂN

Thứ năm, ngày 24 tháng 7 năm Kỷ Hợi (tức 27/8/1959 DL).

Lần này tôi cùng hai sư Khoan Hàng, Tri Lập và cư sĩ Phương Khoan Lệ v.v… từ Hương Cảng đồng về nước lên núi Vân Cư chúc thọ Hòa thượng.

Ngày 24/7 (Âm lịch) chúng tôi lên đường, ba giờ trưa thì đến Quảng Châu, liên lạc với sư Khoan Định… hẹn nhau cùng lên núi.

7 giờ sáng Thứ Sáu ngày 25/7 chúng tôi đáp hỏa xa đi Bắc. 8 giờ sáng Thứ Bảy (26/7) thì đến trạm Nam Xương. Do đêm qua chưa ăn gì, nên ai cũng tìm thức lót lòng ở trạm xe. Nhưng tìm mãi vẫn không thấy có gì bỏ bụng. Thế là tôi và Phương Khoan Lệ coi hành lý, còn hai sư Khoan Hàng, Tri Lập thì đi mua đồ, nhưng không cách chi mua được.

Kết quả, chúng tôi chi hơn 80 đồng để bao xe riêng. 9 giờ xe chạy, 1 giờ trưa thì đến bến đò Trương Công. Tôi biết chỗ này trước đây có thiết lập một gian chiêu đãi nhằm tạo phương tiện cho khách đi triều lễ Vân Cư có chỗ ăn uống nghỉ ngơi. Nhưng khi đến đây, tôi tìm khắp mà không thấy, hỏi thăm người dân quanh vùng mới biết tiệm này đã bị thiêu rụi hồi tháng 5 năm ngoái. Còn đang bàng hoàng, bỗng thấy từ xa xa có hai Tăng nhân, sư Khoan Hàng liền tiến đến hỏi thăm những chuyện đã xảy ra ở núi Vân Cư. Phần tôi… do bụng đói, ruột sôi kêu rồn rột, thêm nỗi nghỉ không có chỗ bèn hướng họ hỏi thăm, xem có tiệm chay nào có thể vào ăn?… Đến khi chúng tôi tìm được phạn điếm, mới kêu thức ăn lên thì nhân viên trong tiệm hỏi chúng tôi có phiếu gạo không? Bốn người vừa nghe hỏi, chỉ biết nhìn nhau ngơ ngác. Chúng tôi không có phiếu gạo, tức nhiên tiệm cơm chẳng đồng ý cung cấp thức ăn cho chúng tôi. Thế là chỉ còn nước đến hỏi thăm các Tăng nhân. Một vị sư trong đây tên là Khoan Hoa, hiền từ nói: Chúng tôi chỉ còn chút ít thức ăn, xin mời các vị lót lòng tạm, rồi họ sớt thức ăn cho chúng tôi. Chúng tôi ăn qua loa cũng tạm đỡ đói. Sư Khoan Hoa hỏi chúng tôi định chừng nào lên núi? Và góp ý rằng tốt nhất nên đi luôn hôm nay. Bởi vì hôm nay có mười tu sĩ xuống núi công tác, nếu như hôm nay chúng tôi lên núi, gặp được các vị ấy, họ có thể giúp gánh hộ hành lý thay chúng tôi. Nếu để ngày mai lên núi, phải tìm người phụ việc rất bất tiện mà thù lao cũng không dễ…

Chúng tôi nghe nói cảm thấy thiệt là may, tất nhiên không bỏ qua cơ hội. Bèn xin họ từ bi giúp cho. Hành lý chúng tôi được người phụ gánh lên núi trước. Phần tôi lớn tuổi, lại có bệnh cao huyêt áp, còn thêm chứng nhức đầu, do sức khỏe yếu kém nên chỉ lần bước chầm chậm theo. Lúc này mặt trời đã lên cao, đường nóng khó đi, chỉ có mấy cây số đường núi mà tôi cảm thấy tứ chi rả rời, mệt bứt hơi… thế là tôi ngã lăn ra, nằm xỉu ngay giữa đường. Mọi người phụ đỡ tôi dậy, cho tôi chống gậy bước đi lần lần, tôi bước ngã xiêu ngã tó, cuối cùng nhờ từ quang chư phật gia hộ, dần dần tôi cũng định tĩnh được và đến gian am tranh đầu tiên. Lúc này trời đã tối, nhưng khi nhìn lên bỗng thấy trên núi phóng ra một luồng ánh sáng chói rực. Ai cũng lấy làm lạ, cơm tối xong, nhờ các sơn Tăng từ bi, nhường giường cho chúng tôi nghỉ qua đêm.

Sáng chủ nhật (27/7 ÂL), dùng điểm tâm xong, chúng tôi lục tục lên núi. Độ 10 giờ thì đến chùa Chân Như. Trước tiên chúng tôi vào Khách Đường chào thầy Tri khách, dùng trà nước xong thì đi lễ Hòa thượng. Ngài vừa thấy chúng tôi đã nói ngay: -“Khoan Huệ! Tôi không gọi ông đến, ông mò lên làm gì? Báo hại tôi phải lo lắng”…Rồi Ngài hỏi thăm: – “Hiện tại chúng trụ nhiều ít? Tất cả đều dụng công tốt chứ? Chùa năm nay canh tác chi dùng có đủ hay không?“… Hòa thượng thật từ ái, khó mà diễn tả cho hết… Lúc này sư Khoan Hàng bước vào thất, Hòa thượng vừa thấy ông ta liền bảo: ” “Tôi viết hơn mười phong thư mong ông đến, vì sao lại chần chừ tới giờ mới lên? Còn Khoan Huệ tôi không gọi lão đến, lão lại lần mò lên đây? Tôi định là sẽ đi3 vào tháng tư này, nhưng việc chưa xong, nên phải hoãn lại. Sau đó đã chuẩn bị là tháng 7 đi, nhưng thấy việc vẫn chưa xong nên chưa thể ra đi. Rồi Ngài tiếp:

– Các ông đi đường gian khổ dữ. Thôi, đi rửa mặt nghỉ ngơi rồi gặp lại sau. Tôi bảo người chuẩn bị cơm chay, các ông ăn xong rồi hãy bàn chuyện.

Sư Tri khách thật lễ mễ, đãi dọn thức ăn đầy bàn, hương thơm ngào ngạt, đúng là danh sơn thánh địa, quả nhiên có khác…

Dùng cơm xong, chúng tôi về phòng, soạn lễ vật ra chia biếu các Đại hòa thượng như sư Duy Thâm, sư Tri khách v.v… và giữ lại một phần riêng dành cúng dường Lão hòa thượng. Sau ngọ, chúng tôi yết kiến Đại sư, dâng tặng Ngài chén trà ngọc quế. Ngài uống xong dặn dò chúng tôi ít việc.

Sáng thứ hai, (ngày 28/7) sư Hùng Thanh báo tin:

Giáo sư Khoan Độ đến rồi, đã phái người đi tiếp giúp ông ta lên núi. Khi Khoan Độ tới, tôi thấy ông là một tục nhân mẫu mực hoàn toàn, điềm đạm uy nghi, bàng bạc phong thái của người tu. Lòng tôi chợt dấy lên một cảm xúc khó diễn tả.

Sáng 29, sư Tri khách phái người đưa hai sư Khoan Hàng, Tri Lập xuống núi, giúp đăng ký trình báo tạm trú, mãi đến 4g30 chiều mới về. Nhờ chính phủ phái Chu sở trưởng lên núi chuẩn nguyện cho chúng tôi. Hằng ngày chúng tôi bầu bạn với mọi người chung quanh, trước sự tiếp đãi vô cùng chu đáo ở đây, chúng tôi cảm kích vô cùng.

Hôm nay thứ ba (29/7 Â.L) là sinh nhật Lão Hoà thượng, cho nên đệ tử bốn phương, chư vị quan khách… xa gần đều vân tập lên núi chúc thọ, đi nườm nượp trên đường. Đủ biết đức hạnh Ngài cảm hóa lòng người rất sâu. Tối đến, chúng tôi muốn yết kiến Lão nhân, nhưng sợ Ngài đã nghỉ, tiến lui đều lúng túng, nhờ sư Hàng hỏi thăm, biết Ngài chưa ngủ, thế là tôi cùng các sư Khoan Hàng, Khoan Định, Tri Lập và cư sĩ Phương Khoan Lệ (cả thảy năm người), đồng bước vào thăm, thấy Ngài nằm trên sạp, tôi tiến lại trước, dâng quả cúng dường, Ngài bảo:

– Để cạnh đây đi!

Rồi đến các ông Phương Khoan Lệ v.v… dâng lễ, Ngài khách sáo nói:

– Quý vị giữ lại để dùng đi! Không nên tặng cho tôi nữa! Sư Hàng đại diện đáp:

– Chúng con đều có đủ, xin Ngài thu nhận cho.

Ngài nói:

– Được rồi! Đặt xuÓng đây đi. Lại nhìn chúng tôi và bảo:

– Các ông hãy về nghỉ ngơi. Ngày mai tôi không tiếp khách. Các ông có thể vào thăm.

Thứ tư, ngày 30/7, lên điện lễ buổi sáng xong, khách muốn vào bái kiến Ngài. Nhưng không được toại nguyện. Đến ngọ, Ngài đích thân cúng trai, mọi người được kết duyên mỗi phong bao hai đồng, rồi thấy Ngài dán ở trước cửa phòng tờ giấy viết thế này:

“Hôm nay không tiếp khách”. Chúng tôi mới hiểu ra lý do hồi sáng Ngài từ chối gặp người… Ngày hôm ấy Hòa thượng tinh thần rất tốt.

Thứ năm, sáng mồng 1 tháng 8 (ÂL), tôi cùng các bạn… gặp Hòa thượng rồi, thấy trên núi không xảy ra chuyện gì nên cùng hẹn ngày xuống núi.

Sư Hàng hướng Hòa thượng xin phép từ biệt, trình báo chúng tôi định chủ nhật này (mùng 4) xuống núi. Ngài đáp:

Ừ, tùy các ông, miễn là thấy tiện… Được Hòa thượng chấp thuận, chúng tôi lo chuẩn bị để mồng 4 hạ sơn. Nhưng rạng sáng Thứ Sáu, (tức ngày mồng 2), sư Hùng Thanh đến bảo:

Hòa thượng cho gọi!… Sư Khoan Hàng và chúng tôi cùng nối gót theo ông. Sư Hàng vừa bước vào, Hòa thượng liền bảo:

-Chủ nhật này các ông khoan đi, ta có chút chuyện muốn nói với các ông. Chúng tôi vâng lời. Xế trưa, hoà thượng kêu sư Hàng vào, Ngài lấy ra một tập bản thảo gồm 5 cuốn đưa cho ông ta.

Thứ bảy, (mồng 3) gần ngọ, Ngài lại kêu sư Hàng vào. Bảo:

-Con có thể vì thầy làm một chuyện nhỏ chăng?

Sư Hàng đáp:

Dạ, bất kể Sư phụ muốn con làm gì con đều vâng theo. Cho dù gian khổ đến mấy con cũng chẳng từ.

Hòa thượng nói:

-Ta nghĩ tới nghĩ lui, trong các hàng môn đệ đây, chỉ có thể trông cậy vào con. Nói xong Ngài rút từ trong mình ra một tờ giấy ghi hàng ngàn chữ nhỏ li ti. Lệnh cho Khoan Hàng cất giữ chung với xấp bản thảo trước để đem sang Hương Cảng giao cho cư sĩ Sầm Học Lữ.

Quá ngọ, sư Khoan Hàng bàn việc tại phòng Hòa thượng trước, Ngài bảo sư Hùng Thanh kêu tôi và Khoan Định, Tri Lập… ba người cùng vào, lịnh cho Hùng Thanh mở rương lấy ra một pho tượng ngọc Phật, hai tay Ngài đỡ lấy, trịnh trọng nâng lên đặt trên đỉnh đầu, sau đó mới giao cho sư Khoan Định, bảo:

Tôn tượng ngọc Phật này ta giao cho con thờ phụng, rồi Ngài cho Khoan Định một chiếc y bằng vải, và một khối hổ phách màu huyết dụ, và nói:

Khối mã não này cho con để nhìn cho tỏ mắt.

Rồi Ngài lấy một chiếc áo Bố Đại mùa hạ ban cho tôi và cho tặng Tri Lập một Kỷ niệm chương có biểu tượng bồ câu hoà bình. Ngài còn đưa một chiếc áo Bố Đại nữa cho sư Tri Lập, dặn dò hãy đem về Hương Cảng tặng cho sư Hùng Hiền làm kỷ niệm. Ngài còn ban cho Khoan Hàng một con tê giác trắng, một chiếc áo Bố Đại và bảo: – Y và bạch tượng này đều cho con. Thật lạ, con tê ngưu mà Ngài lại gọi là bạch tượng, hay Ngài có dụng ý riêng gì chăng?

Rồi Ngài lấy ra bốn bức tranh và hình chụp, ban cho chúng tôi. Có những ảnh chụp Hòa thượng xây Hải Hội Tháp, khắc bia v.v… Sau đó Ngài lấy xâu chuồi La Hán 18 hột 7 sắc 9 báu ra, dặn sư Khoan Hàng mang về Hương Cảng tặng cho cư sĩ Sầm Học Lữ và bảo:

Sầm cư sĩ mấy năm nay nhọc nhằn ghi chép thay cho tôi. Thỉ chung chẳng lười. Tình nghĩa của ông rất đáng cảm. Hãy đem xâu chuỗi này (là vật trong cung, do một Thân vương tặng tôi) trao cho ông ta làm kỷ niệm. Sau khi chia quà, gởi gắm mọi thứ… xong, Ngài khai thị:

– Đã hiểu rõ (minh bạch) thì sinh cũng tốt, tử cũng tốt. là nam cũng tốt, là nữ cũng tốt. Thật ra không có sinh tử, nam, nữ cùng tất cả tướng….(vô hữu sinh tử nam nữ cập nhất thiết các tướng). Nếu chẳng minh bạch thì không hành đúng được (bất vi nhiên). Nên biết các pháp tướng thế gian đều là huyễn hóa. Như hoa đốm trong không, như trăng đáy nước, tuyệt không chân thật. Chỉ có dốc lòng niệm Phật làm tư lương vãng sinh.

Xế trưa ngày mồng 4, Sư gọi Khoan Hàng vào, nói: – Giờ đây các thủ tục thầy đều đã lo xong, chỉ có một việc chưa thể buông bỏ… khi con đi đến Hàng Châu hãy thay ta tới Long Hoa Am tìm Tông Hòa. Kiếm Phụ thân ông ta pháp danh là Tâm Văn. Quan trọng nhất là phải kêu Tâm Văn đến núi Vân Cư một lần. Nếu như Tâm Văn có thể đến được, ắt tất cả thủ tục có thể lo xong. Ta có thể yên lòng buông hết.

Sư Hàng thưa: Khi con tới Hàng Châu, bất kể khó khăn thế nào cũng quyết tìm cho ra người này, xin Hòa thượng yên tâm.

Mùng 5, thứ hai, Hòa thượng gọi sư Hùng Thanh đến, kêu chúng tôi vào. Ngài cầm thanh thiền bảng, bảo chúng tôi:

– Một cá nhân lúc làm việc thì phải hoàn toàn nhẫn, nhẫn, nhẫn, chân thật. Tôi nói:

– Xin Ngài bảo trọng pháp thể. Trụ lâu ở thế gian, hóa độ hữu tình.

Ngài đáp:

– Ta giảng nhiều cho các ông rồi, các ông còn nói lời phàm phu. Rồi Ngài đưa thiền bảng lên, hướng về chúng tôi nói:

– Các ngươi xem xem, có hay không có vật gì?…

Sau đó Ngài hỏi:

-Bao giờ các ông xuống núi?…

Chúng tôi thưa: Do giấy tạm trú trong hộ khẩu đến mồng 6 hết hạn, nên chúng con định mồng 6 đi. Ngài có vẻ thất vọng và buồn. Sau đó Ngài kêu thị giả mang trà đến, ban cho chúng tôi mỗi người một phần. Sư Khoan Định lại thưa:

-Cúi xin Hoà thượng bảo trọng thân thể. Trụ lâu nơi đời.

Ngài lại nói:

– Các ông toàn thốt lời phàm phu! – Hôm nay:

Chư Phật tuyển đạo tràng
Thập phương đồng tụ hội,
Người người học vô vi,
Tâm không – thi đậu về –

…Mỗi người hãy về phòng nghỉ ngơi đi!

Lát sau, tôi và sư Hàng bước vào, Hoà thượng bảo sư Hàng:

-Hạnh cúng dường mấy mươi năm chưa từng lui sut của Khoan Huệ thật khó làm. Đệ tử ta có nhiều, song chỉ có y là phát tâm miệt mài đến giờ. Thật là lúếm có. Khoan Huệ hiện đã già, thêm thân thể không an. Con hãy tiếp nối chí nguyện ông ta.

Sáng mồng 6. Chúng tôi vào từ giã Ngài. Hoà thượng chắp tay chào biệt và bảo thị giả tiễn chúng tôi đến cổng sơn môn, còn dặn dò sư Hùng Thanh hãy thay Ngài đưa tiễn… Hòa thượng thật từ bi, chu đáo. Rồi sư Tri khách phái người tiễn chúng tôi xuống chân núi. Đến sở Chu Điền chúng tôi nhận lại giấy tờ. Dùng cơm trưa song, thì đáp xe về Nam. Bốn người chúng tôi đến Trạm Bắc Nam Xương thì đổi xe đi tiếp hành trình đã định.

  • Thứ Tư, mùng 7 tháng 8 Kỷ Hợi (9/9/1959)
  • KHOAN HUỆ

CHƯƠNG 7: NHẬP DIỆT (HƯ VÂN NIÊN PHỔ)

Tháng 10, bệnh Sư ngày càng trở nặng, Ngài ra lệnh đồ chúng gấp rút tu bổ cho xong phần bên trong Tháp Hải Hội. Cho bài trí nhất nhất đúng pháp. Trước tiên là cúng dường Phật tượng, an kinh, tiếp đến là sái tịnh Tăng phòng, rồi cử vài vị Tăng vào đấy ở, sớm hôm niệm Phật.

Thứ tư, ngày 7/10/1959, (tức mồng 6 tháng 9 Kỷ Hợi). Sư nhận được tin Lý Tế Thâm ở Bắc Kinh tạ thế, Sư nói: “Thôi, ông đi trước, Ta cũng sắp đi rồi”!

Thị giả nghe nói rất ngạc nhiên.

Mấy ngày sau Sư không ra khỏi giường, hơi thở như trong trạng thái ngủ. Hằng ngày Thị giả vào hầu bên cạnh, Sư thấy thế bảo:

-Hãy ra ngoài đi, tôi có thể tự lo liệu được.

Giờ ngọ ngày 12, Sư ra lịnh rước Tôn tượng Phật vào cung phụng tại biệt thất. Thị giả thấy Sư có điều khác thường, vội qua cấp báo với Phương Trượng và ba liêu Chức sự. Tối đến họ tề tựu quanh Sư vấn an, thỉnh Ngài vì đạo trụ lâu nơi đời. Sư nói:

-Việc đến nước này rồi mà các ông còn làm như người thế! Hãy phái người vì tôi niệm Phật tại Đại Điện. Chúng xin Sư ban cho lời khai thị và di chúc cuối cùng. Sư nói:

-Phần hậu sự cho tôi, mấy ngày trước đã đặn cả rồi, giờ chẳng cần phải nói lại nữa. Còn hỏi tôi mấy lời tối hậu thì chỉ có thế này:

Khuyên tu Giới, Định, Huệ Ắt diệt tham sân si…

Rồi Sư nằm nghiêng bên tả, nói:

-“Chánh niệm chánh tâm, dưỡng xuất tinh thần đại vô úy, độ người độ dời”…Chư vị vất vả nhiều rồi, hãy về nghỉ sớm đi!

Chúng từ tạ lui ra.

Trong đêm khuya…

Núi Vân Cư địa thế vốn cao. Càng vào thu gió càng lạnh dữ, lá cây rơi xào xạc, cổ thụ cao ngất trời, gió thổi vi vút như muốn lay động vạn vật trong bóng đêm… Trong thất, ngọn đèn nhỏ như hạt đậu tỏa ánh sáng le lói, ngoài cửa sương rơi giọt giọt, nhìn lại thảo am, chỉ có Lão nhân nằm yên trong đó. Xa xa bên Đại điện văng vẳng tiếng chuông u minh ngân nga và lời tụng kinh vang vọng nối tiếp nhau như tiễn đưa Ngài ra đi.

Sáng ngày 30 (tức 12 tháng 9 âm lịch) Hai thị giả bước vào thất, thấy Sư ngồi tĩnh tọa như thường, hai má hơi ửng hồng giống như hôm qua, chẳng dám làm kinh động nên nhè nhẹ lui ra đứng hầu ngoài cửa.

12 giờ, từ ngoài song họ nhìn vào thấy Sư bước xuống giường, tự lấy nước uống rồi đứng dậy lễ Phật. Thị giả sợ Sư bị bệnh đã lâu, thân thể suy yếu dễ té nên bước vào. Sư ngồi xuống, bảo thị giả:

Ta nằm mộng thấy có một con bò đạp gãy cầu Phật Ấn, lại thấy dòng suối Bích Khê ngừng chảy. Rồi Ngài nhắm mắt, không nói nữa.

Đến 12 giờ 30 Sư kêu hai thị giả đồng vào, Ngài mở mắt nhìn khắp, nằm nghiêng bên hữu nói:

-Các con hầu ta mấy năm nay, tận tụy cực nhọc đáng cảm. Việc ngày trước không bàn đến nữa. Ta mười năm gần đây, ngậm đắng nuốt cay… trước bao dèm báng, oan khuất, Ta đều nhẫn chịu. Chỉ mong bảo lưu được đạo tràng Phật Tổ trong nước, gìn giữ thanh quy Tổ đức cho Tự viện, ta dốc hết sức tàn chỉ mong bảo tồn được chiếc Đại y cho người xuất gia – Phải biết Đại y này là do ta liều mạng giành lại… Các con ngày nay đều là đệ tử đã vào cửa của ta, phải nhận thức rõ những gì đã từng xảy ra. Nhớ, ngày sau nếu các con có kết am hay cần trụ bốn phương, thì phải kiên trì bảo tồn Đai y này. Làm thế nào để bảo tồn vĩnh viễn?- Chỉ có một chữ: -“GIỚI!”…Nói xong, Ngài chắp tay lại bảo:・ “Trân trọng“… Hai vị thị giả rơi lệ lui ra ngoài, đứng hầu dưới hiên.

Đến 1g45, hai thị giả vào thăm. Thấy Sư nằm nghiêng bên hữu theo thể kiết tường và đã thị tịch rồi. Họ vội và báo cho Trụ trì cùng đại chúng hay, tất cả tề tựu tụng kinh tiễn biệt, ngày đêm luân lưu niệm Phật. Thứ hai 18/9 ÂL đóng cửa khám, Thứ ba 19/9 ÂL trà tỳ, lúc châm lửa. khói trắng cuồn cuộn bốc cao, nghe hương thơm xông khắp. Khi mở khám, thu được hơn trăm viên xá-lợi ngũ săc, hạt nhỏ thì vô số. Màu trắng là nhiều nhất, thảy đều tinh khiết, sáng óng ánh, lấp lánh. Thứ năm 21/9 Â.L đem tro xương Ngài nhập tháp Hải Hội núi Vân Cư.

Sư thọ thế 120 tuổi, hạ lạp 101 tuổi.

Tính ra, Sư nhập diệt vào ngày Thứ ba, 12 tháng 9 Â.L (nhằm ngày Mậu Thìn tháng Giáp Tuất năm Kỷ Hợi) tức 13/10/1959 Dương lịch. Nghe tin Hòa thượng Hư Vân chùa Chân Như núi Vân Cư tịch diệt, cả thế giới chấn động, tiếc thương1 Chi tiết ngày, tháng, năm Sư mất được nghiên cứu và trích từ tài liệu của đệ tử Sư là cư sĩ Ứng Thang (Chu Kinh Tru) vì ông ghi rõ ràng, chính xác nhất.


PHỤ LỤC: CÔNG HẠNH ĐỜI SƯ (HƯ VÂN NIÊN PHỔ)

  • CHU KÍNH TRỤ

Khi tôi viết bài này tôi đã đọc Niên Phổ tỉ mỉ rất nhiều lần, cảm thấy Sư trong 100 năm Tăng lạp này, không gì mà không là việc quan trọng đáng ghi lại. Bởi vậy dường như chẳng cách chi hạ bút.

Sau đó do Sầm Học Lữ nhiều lần thúc hối, trách cứ, tôi mới bắt đầu viết, tôi đem cả một đời công hạnh Sư phụ, đúc kết lại như sau:

Hạnh Thanh Tịnh: Sư bị ép kết hôn mà không nhiễm, trên thuyền Ninh Ba từ chối nữ sắc, thật không thẹn với bốn chữ “Phạm hạnh thanh tịnh“.

Hiếu: Sư triều lễ Ngũ Đài, lễ xá-lợi, đốt tay… cầu báo ân song thân. Trong mắt một số người, có thể cho là Ngài ngu hiếu, song nếu là kẻ vô trí sẽ không thể nào thành tựu được Đức đại hiếu như vậy, Đó là Hiếu thế gian của Sư. Còn khi Sư trùng hưng các đạo tràng Kê Sơn, Nam Hoa, Vân Môn, Vân Thê v.v… thì chính là Hiếu xuất thế gian của Sư. Hiếu thế gian và Xuất thế gian, Sư đều có đủ, nếu không phải là bậc Đại bồ-tát, thật khó mà làm được như vậy!

Nhẫn: Cả đời Sư sông bàng bạc chữ Nhẫn – Khéo nhẫn những đều khó nhẫn – chỉ Sư mới làm được.

Định: Định lực của Sư rất phi thường tất nhiên ai cũng thấy.

Xả: Sư từ chức ở Cổ Sơn vào núi xả hết sở hữu, sau đó xây các ngôi danh lam: Nghinh Tường Thiền Tự, Vân Thê, Nam Hoa, Vân Môn… Tất cả Sư đều: – Xây xong là ra đi – Ngôi kiến trúc cuối cùng Sư xây là: chùa Chân Như núi Vân Cư Giang Tây, Sư cũng tự náu nương nơi am tranh, trọn cả đời không giữ một vật riêng, phòng riêng, từ bỏ hết mọi hưởng thụ cá nhân. Hạnh xả này của Sư có thể gọi là khuôn phép mẫu mực cho đời.

“Mùa hạ năm Kỷ Sửu, Sư từ Vân Môn tới Hương Cảng. Sầm hỏi: – “Thế sự biến đổi, tương lai con ở đâu mới hợp?“, Sư trầm ngâm hồi lâu rồi dạy: “Người học đạo đi đến đâu cũng là quê nhà, buông hết thì là đạo tràng, cư sĩ hãy khéo an tâm”.

Sư còn ngầm chỉ giúp là Cư Chánh hợp Đài Loan, Lý Hán Hồn hợp Mỹ. Lý từng hỏi bản thân Sư thế nào, Sư nói: “Trăm vạn Tăng, Ni không chỗ nương, tôi cần phải nhẫn để hướng dẫn họ.”

Rồi Sư tự đề thơ cho bức tượng mình rằng:

Giá cá si hán
Hữu thậm lai do
Mạt pháp vô đoan
Tham dục xuất đầu
Ta tư thánh phái
Nhất phát nguy thu
Kỷ sự bất nguyện
Đoan vi nhân ưu
Hướng Cô Phong đỉnh
Trực câu điếu lý
Nhập đại hải để
Phát hỏa tiên âu
Nhen lửa nấu bọt
Bất hoạch tri âm
Đồ tự bi thương
Tiếu phá hư không
Mạ bất tức lưu
Y! vấn cừ vi hà bất phóng hạ?
Thương sinh khổ tận na thời hưu

Tạm dịch:

Anh chàng si này
Là từ đâu tới?
Mạt pháp không mối
Tham dục xuất hiện
Buồn cho đạo Thánh
Ách nạn vừa phát
Việc mình chẳng quản
Chỉ lo người đau,
Hướng Cô Phong đỉnh
Thả lưỡi thẳng, câu
Vào đáy biển sâu
Nhen lửa nấu bọt
Chẳng gặp tri âm
Chỉ tự buồn rầu
Cười phá hư không
Chửi chẳng câu mâu
Này, hỏi anh vì sao chẳng buông?
Thương sinh khổ đến tận cùng thì ngưng.

Từ Bi: Xem cách Sư mật khuyên Lý Hán Hồn, Cư Chánh, ắt Sư đã dự biết trước hết cả rồi, ngoài kế sách Sư ở lại giữ Vân Môn ra, còn có tấm lòng từ bi vô bờ lo cho số phận Tăng, Ni nội địa. Bởi vậy Sư mới nói: “Việc mình chẳng quản, chỉ lo nỗi đau của người”. Sư tình nguyện vì chúng sinh thọ khổ. Và rõ ràng là Ngài đã khổ đến cùng kiệt. Trong Niên Phổ, Sư tự thuật, có hai việc này là chẳng đề cập đến. Nhưng đâu phải là không trọng yếu? Tôi đã tìm trong tài liệu của các bằng hữu và kể ra đây, để thấy rõ Ngài thật là đại từ đại bi vậy!

Dị Thường Hạnh: Hạnh dị thường bàng bạc trong đời Sư. Điểm lạ khác nữa là Sư mỗi khi dạ hành, bất luận là lộ trình xa gần, dẫu đường núi gập ghềnh khúc khuỷu, gồ ghề… Sư đều chẳng hề dùng đèn. Tôi hỏi Sư:

-Có phải hai mắt Ngài phát quang? – Sư chẳng đáp.

Phương Tiện Hạnh: Sư chỉ dùng vài lời nói mà đã có thể giảng hòa, giải nguy ách cho ông Trương, Tri huyện Tân Xuyên, tránh chiến tranh cho Tây Tạng và Trung Quốc, nhiếp phục Lý Căn Nguyên. Giảng hòa nhóm thổ phỉ với ông Đường khiến địa phương này hơn mười năm an ổn. Bồ- tát hành Phương Tiện Hạnh, cần nhờ vào biện tài. Qua đây thấy rõ, hạnh này rất hữu ích cho chúng sinh.

Đại Vô Úy: Khi Hiệp Hội Phật Giáo Trung Quốc thành lập, có người đề nghị nên thủ tiêu Kinh Phạm Võng, Tứ Phần Luật, Bách Trượng Thanh Quy v.v… Sư đều phủ quyết, không chấp nhận, cho rằng đây là những điều xằng bậy, ngông cuồng.

Những điều Sư đã sống, đã hành, quả là cuồn cuộn khí thế, người đương đại ai có thể bì kịp? Hạnh Đại Vô úy của Sư là như thế đấy.

Bất Phóng Dật: Sư một đời hành đạo chưa từng ngừng nghỉ. Kính Trụ tôi hầu Sư trước sau gần một năm, thấy Ngài luôn như thế, bất phóng dật.

Một đời hành đạo của Sư, chỉ vài lời thế này này làm sao có thể nói hết một phần vạn? Hơn nữa, trong Niên Phổ Tự Thuật vẫn còn nhiều điều cần nói mà không thể nói. Có một chuyện thế này: Khi Sư xây Tháp Phổ Đồng ở Nam Hoa, đã từng cho lưu một huyệt, và đề rằng: “Hư Vân di thuế“, (Hư Vân bỏ xác) đủ thấy Sư đã có dự định chọn ngày tàn của mình là xả thân ở đây (Nam Hoa).

Nếu như không có dòng thác thời cuộc rối ren, cộng thêm nhiều bức hại… thì ắt hẳn đạo tràng trăng nước Vân Cư vẫn chỉ là trăng nước mà thôi -Điều này trong Niên Phổ chưa đề cập đến, nhưng để bổ túc, tôi kể lại. Qua đây có thể thấy chí nguyện của Sư.

Sư phát nguyện trùng hưng chùa Quang Hiếu, Do nhân duyên thời cuộc chưa chín, nên không thể thực hiện tròn nguyện.

Chuyện trùng hưng Quang Hiếu, thôi thì đành đợi người hậu lai?…

Trong niên phổ trang 406 có viết: “Đại tồn“, (giữ thay) và viết: “Tương lai” – Ắt Sư phát nguyện trùng lai! (trở lại)? Chẳng hỏi chi về nguyện này nữa, nhưng nhân đây tôi có một dự ký rằng: “Ngày sau, nếu có người phát tâm trùng hưng Quang Hiếu – Ắt là Sư tái lai, không nghi!

  • Trung Hoa Dân Quốc 57
  • Đệ tử CHU KÍNH TRỤ kính ghi